Thủ tướng Phạm Minh Chính: Vùng ĐBSCL sẽ có sự phát triển mạnh mẽ và đột phá

16:22 | 21/06/2022 Print
Trong thời gian tới, vùng ĐBSCL sẽ có sự phát triển mạnh mẽ và đột phá. ĐBSCL trở thành vùng có trình độ phát triển khá so với cả nước, có trình độ tổ chức xã hội tiên tiến; thu nhập của người dân ngày một nâng cao; người dân ngày càng ấm no, hạnh phúc.

Phát biểu tại Hội nghị công bố quy hoạch và xúc tiến đầu tư vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-2030, ngày 21/6, Thủ tướng Phạm Minh Chính tin tưởng rằng, Hội nghị sẽ góp phần khơi thông, huy động các nguồn lực, là sự khởi nguồn thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững của ĐBSCL trong thời gian tới.

Thủ tướng Phạm Minh Chính: Vùng ĐBSCL sẽ có sự phát triển mạnh mẽ và đột phá
Thủ tướng Phạm Minh Chính tin tưởng rằng, Hội nghị sẽ góp phần khơi thông, huy động các nguồn lực, là sự khởi nguồn thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững của ĐBSCL trong thời gian tới. Ảnh: VGP

Thủ tướng ghi nhận, biểu dương nỗ lực và quyết tâm cao của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các bộ, ngành và các địa phương vùng ĐBSCL, các đối tác quốc tế đã phối hợp chặt chẽ, chuẩn bị chu đáo cho việc tổ chức Hội nghị quan trọng này.

ĐBSCL là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng của cả nước

ĐBSCL giữ vị thế hết sức quan trọng cả về chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng, trong giao thương với các nước ASEAN và Tiểu vùng sông Mekong; có nhiều tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh.

Vùng có diện tích tự nhiên và dân số lớn: gần 4 triệu km2 (khoảng 13% diện tích cả nước), dân số khoảng 18 triệu người (19% dân số cả nước); hiện nay đóng góp khoảng 12% vào GDP của cả nước.

Vùng cũng có tiềm năng về địa hình phát triển giao thông. Có đường bờ biển dài 700km và trên 360 nghìn km vuông vùng biển và vùng đặc quyền kinh tế. Có tiềm năng kết nối, thông qua các cảng tại TP. Hồ Chí Minh và cụm cảng Cái Mép - Thị Vải trên địa bàn tỉnh của Bà Rịa - Vũng Tàu, với các thị trường Đông Á, châu Âu, Mỹ... Đồng thời, vùng ĐBSCL nằm trong khu vực có các tuyến hàng hải và hàng không quốc tế quan trọng.

Thuận lợi phát triển nông nghiệp với hơn 2,5 triệu ha đất nông nghiệp (chiếm 62,9% tổng diện tích đất tự nhiên của cả vùng) được bồi đắp phù sa màu mỡ, mạng lưới sông ngòi, kênh rạch chằng chịt. Là trung tâm sản xuất nông nghiệp lớn nhất của cả nước, thực hiện sứ mệnh đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và xuất khẩu, tạo công ăn việc làm cho 65% dân cư của vùng (Chiếm 31,37% GDP toàn ngành nông nghiệp, đóng góp tới hơn 50% sản lượng lúa, 65% sản lượng nuôi trồng thủy sản và 70% các loại trái cây; 95% lượng gạo xuất khẩu và 60% sản lượng cá xuất khẩu của cả nước).

Bên cạnh đó, ĐBSCL có thế mạnh về phát triển công nghiệp năng lượng tái tạo, công nghiệp thực phẩm, đặc biệt phát triển du lịch quanh năm và các ngành dịch vụ khác.

Đầu tư vào ĐBSCL ngày càng được quan tâm hơn. Thủ tướng cho biết, tổng mức đầu tư từ ngân sách nhà nước đầu tư qua địa phương vùng ĐBSCL ngày càng tăng; giai đoạn 2016-2020 đạt gần 200 nghìn tỷ đồng (tương đương gần 9 tỷ USD) chiếm khoảng 16% tổng đầu tư ngân sách nhà nước.

Theo thống kê chưa đầy đủ, kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 của các Bộ, ngành và địa phương hỗ trợ vùng ĐBSCL là trên 318 nghìn tỷ đồng (tương đương khoảng 13,8 tỷ USD); tăng khoảng 5 tỷ USD so với thời kỳ trước, tập trung vào hạ tầng chiến lược. Có lẽ trong nhiệm kỳ này, ĐBSCLđược ưu tiên cao nhất và điều này là hoàn toàn xứng đáng.

Đặc biệt, đây là vùng đất giàu truyền thống lịch sử, văn hóa và cách mạng anh hùng của nhân dân; là địa bàn sinh sống, gắn bó đoàn kết lâu đời của cộng đồng các dân tộc Việt, Khmer, Hoa, Chăm... tự lực, tự cường; năng động, sáng tạo; chân tình, cởi mở, phóng khoáng.

“Với những đặc điểm đó, ĐBSCL thực sự là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước; là “Vùng cực Nam - Thành đồng của Tổ quốc”, cửa ngõ phía Tây Nam của quốc gia, có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng cần được phát huy cao hơn, và tiềm năng, lợi thế to lớn cần được phát triển thành nguồn lực, cần được khai thông, tháo gỡ có hiệu quả hơn nữa”, Thủ tướng nhấn mạnh.

Thủ tướng Phạm Minh Chính: Vùng ĐBSCL sẽ có sự phát triển mạnh mẽ và đột phá
Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị. Ảnh: VGP

Vẫn còn tồn tại, hạn chế, khó khăn, thách thức

Tuy nhiên, Thủ tướng cũng thẳng thắn chỉ rõ, ĐBSCL vẫn còn những tồn tại, hạn chế, khó khăn, thách thức; chưa phát huy hết tiềm năng, thế mạnh của mình, tiềm năng thì lớn nhưng cơ chế, chính sách còn hạn hẹp; phần đóng góp của vùng vào kết quả chung của cả nước vẫn còn hạn chế.

“Nếu lấy con người là trung tâm, chủ thể, động lực, mục tiêu, là nguồn lực cho sự phát triển của ĐBSCL thì đây cũng là điểm nghẽn lớn nhất”, Thủ tướng nhận định. Đặc biệt là vấn đề nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; nhất là cán bộ các cấp cần phải năng động, sáng tạo, tự tin, tận tụy, trăn trở nhiều hơn nữa.

Nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế, tỷ lệ lao động vùng qua đào tạo khoảng hơn 15%, thấp hơn nhiều so với trung bình chung cả nước (năm 2020, cả nước có tỷ lệ 64,5% lao động qua đào tạo, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ đạt 24,5%).

Quy mô kinh tế nhỏ chỉ chiếm 12,08% GDP của cả nước; thu nhập bình quân đầu người bằng khoảng 67% so với bình quân chung cả nước (53,98 so với 80,21 triệu đồng/người). Tỷ lệ đô thị hóa thấp hơn cả nước (27,2%, cả nước là 40,5%).

Kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ, thiếu và yếu. Thủ tướng chỉ rõ, trước hết, hạ tầng giao thông chưa đồng bộ, chất lượng chưa đáp ứng nhu cầu phát triển, chuyển tải của cải vật chất được sản xuất tại vùng ra cả nước và thế giới; thiếu cảng biển nước sâu để kết nối với quốc tế; thiếu các trung tâm tiếp vận và kho vận của vùng; giao thông đường thủy nội địa chưa được phát huy; hạ tầng thủy lợi chưa đáp ứng yêu cầu phát triển trong điều kiện biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn. Hạ tầng về y tế, giáo dục còn chưa đồng đều, yếu kém ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo.

Bên cạnh đó, còn có sự không đồng đều về môi trường đầu tư kinh doanh; các chỉ số về cải cách hành chính, hiệu quả quản trị và hành chính công, chuyển đổi số thấp hơn so với các vùng khác trong cả nước. Liên kết vùng còn chưa thực sự chặt chẽ và hiệu quả.

Thu hút FDI còn thấp; Du lịch, dịch vụ chưa phát triển; Cải cách hành chính, chuyển đổi số chưa thực sự mạnh mẽ và hiệu quả, cần rất nhiều sự quan tâm chỉ đạo và đầu tư thỏa đáng, phù hợp, hiệu quả.

Vùng cũng là một trong những khu vực địa lý chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu trên thế giới, như lũ lụt, hạn hán, xâm nhập mặn do mực nước biển dâng cao, sạt lở bờ sông, nước dâng do bão lũ và các rủi ro liên quan đến khí hậu khác…

“Tinh thần tự tin, tự lực, tự cường vươn lên từ bàn tay, khối óc, mảnh đất, khung trời, cửa biển của vùng cần phải được đẩy mạnh hơn nữa”, Thủ tướng chỉ rõ.

10 nhiệm vụ, giải pháp cụ thể

Khẳng định những năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều nhiều chủ trương, chính sách, triển khai nhiều giải pháp để phát huy tiềm năng, lợi thế, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL, như: Nghị quyết số 13-NQ/TW của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững vùng ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu; Nghị quyết số 78/NQ-CP của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị; Quyết định số 287/QĐ-TTg của Thủ tướng phê duyệt Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; Quyết định số 324/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình tổng thể phát triển nông nghiệp bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu vùng ĐBSCL…

Thủ tướng Phạm Minh Chính: Vùng ĐBSCL sẽ có sự phát triển mạnh mẽ và đột phá
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính: ĐBSCL thực sự là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

“Từ đầu nhiệm kỳ tới nay, chúng ta cũng đã tổ chức rất nhiều hội nghị, hội thảo để bàn về ĐBSCL”, Thủ tướng nói.

Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ cũng có cơ chế, chính sách đặc thù cho Cần Thơ - trung tâm của vùng: Nghị quyết 59-NQ/TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết 45/2022/QH15 của Quốc hội và Nghị quyết 98/NQ-CP của Chính phủ về xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045… Đã thành lập Hội đồng điều phối vùng ĐBSCL giai đoạn 2021-2025 do đồng chí Lê Văn Thành, Phó Thủ tướng Chính phủ làm Chủ tịch và 4 Bộ trưởng làm Phó Chủ tịch; kèm theo là quy chế hoạt động. Đây là Hội đồng điều phối vùng đầu tiên của cả nước.

“Như vậy, chủ trương của Đảng tới việc thể chế hóa bằng các cơ chế, chính sách, pháp luật của Nhà nước, bố trí nguồn lực, tổ chức thực hiện… với ĐBSCL đều có hệ thống và rất tích cực, vấn đề là các địa phương, các bộ ngành, tổ chức quốc tế cùng Chính phủ tổ chức thực hiện có hiệu quả, thực chất”, Thủ tướng khẳng định.

Trước mắt, Thủ tướng cho rằng, cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:

Thứ nhất, về công tác phòng chống dịch: Tiếp tục triển khai hiệu quả Chương trình phòng, chống dịch COVID-19 (Nghị quyết 38/NQ-CP), không chủ quan, lơ là, mất cảnh giác, tạo thuận lợi cho phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Quyết liệt triển khai chiến lược tiêm vaccine, nhất là cho trẻ em từ 5-11 tuổi, tiếp tục tiêm mũi thứ 3, thứ 4, hoàn thành mục tiêu mà Chính phủ và Ban chỉ đạo quốc gia đã đề ra, bảo đảm an toàn, hiệu quả, kịp thời.

Thứ hai, tập trung xây dựng các kế hoạch và đầu tư cơ sở vật chất nhằm đầu tư toàn diện cho giáo dục, đào tạo, nâng cao dân trí; đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao; tăng cường xây dựng các trường đào tạo nghề nhằm nâng cao tay nghề cho người lao động, nhất là đội ngũ lao động kỹ thuật, công nhân lành nghề, đáp ứng nhu cầu lao động cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư; xây dựng các trường đại học có thương hiệu trong nước và khu vực.

Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị đã đề ra một số chỉ tiêu cụ thể: Tăng trưởng bình quân giai đoạn 2021 - 2030 đạt khoảng 6,5 - 7%/năm. Quy mô nền kinh tế đến năm 2030 gấp 2 - 2,5 lần so với năm 2021. Tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp trong tổng thu nhập vùng (GRDP) khoảng 20%; công nghiệp - xây dựng khoảng 32%; dịch vụ khoảng 46%; GRDP bình quân đầu người đạt khoảng 146 triệu đồng/người/năm. Tỷ lệ đô thị hóa đạt 42 - 48%; có 80% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó có 30% số xã đạt chuẩn nâng cao.

Thứ ba, về triển khai Quy hoạch vùng ĐBSCL: Các địa phương vùng ĐBSCL cần tích cực triển khai quy hoạch vùng, coi đây là nhiệm vụ trong tâm trong thời gian tới; chủ động, quyết liệt hơn nữa trong việc triển khai các nhiệm vụ, chương trình, dự án đã được xác định trong quy hoạch; khẩn trương xây dựng, hoàn thành quy hoạch của từng địa phương.

“Tinh thần là quy hoạch phải đi trước một bước, tư duy đột phá, tầm nhìn chiến lược, sát thực tế, khả thi, phát huy được tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh sẵn có của các lĩnh vực, khu vực, địa phương và tháo gỡ, hóa giải những hạn chế, yếu kém, mâu thuẫn, thách thức, khó khăn, đồng thời tạo ra động lực mới, thu hút nguồn lực mới cho phát triển. Muốn phát triển tốt thì phải có quy hoạch tốt, vì quy hoạch tốt thì mới có chương trình, dự án tốt, có chương trình, dự án tốt thì mới có nhà đầu tư tốt”, Thủ tướng nêu quan điểm.

Thứ tư, về phát triển hạ tầng: Trong giai đoạn tới, cần tập trung tháo gỡ điểm nghẽn về hạ tầng giao thông và logistic, hạ tầng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, hạ tầng giáo dục, y tế, hạ tầng chuyển đổi số, chống biến đổi khí hậu để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL. Trong đó, các tuyến cao tốc cần đi theo hướng tuyến thẳng nhất, ngắn nhất có thể, theo tinh thần "qua sông thì bắc cầu, qua núi thì đào hầm và qua đồng ruộng thì đổ đất"; không bám theo các khu dân cư để tránh phải dành chi phí lớn cho giải phóng mặt bằng, không tác động lớn tới đời sống người dân và tạo ra không gian phát triển mới.

Các địa phương cần nâng cao tinh thần tự chủ, tự lực, tự cường; nâng cao chất lượng quản trị, năng lực điều hành; chịu trách nhiệm đối với công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, tái định cư; thúc đẩy triển khai các dự án hạ tầng được giao trên địa bàn, bảo đảm tiến độ, chất lượng.

Thứ năm, đẩy mạnh hợp tác công tư và giải ngân vốn đầu tư công: Các bộ, ngành, địa phương phải cụ thể hóa Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, nhất là trong đầu tư cho lĩnh vực cơ sở hạ tầng chiến lược. Đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công; đôn đốc, kiểm tra, giám sát chặt việc thực hiện. Đa dạng hóa nguồn tài chính, đẩy mạnh hợp tác công tư; huy động, kích hoạt mọi nguồn lực cho đầu tư, phát triển, lấy đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư nhân có trọng tâm, trọng điểm, phát triển các mô hình: Lãnh đạo công - quản trị tư; đầu tư công - quản lý tư; đầu tư tư - sử dụng công.

Thứ sáu, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tạo đột phá trong cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hóa thủ tục, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thông thoáng, minh bạch, bình đẳng, thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với kiểm tra, giám sát và kiểm soát quyền lực. Tận dụng sự phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để xây dựng chính quyền số, phát triển kinh tế số, xã hội số.

Thứ bảy, khơi dậy và phát huy cao độ các giá trị truyền thống văn hoá, lịch sử, cách mạng hào hùng của quê hương, quan tâm đến an sinh xã hội, không để ai bị bỏ lại phía sau, không hy sinh tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Quan tâm đầu tư cho giáo dục và y tế, nhất là y tế dự phòng và y tế cơ sở, các chính sách xã hội, chăm lo các đối tượng chính sách, gia đình có công với cách mạng, Mẹ Việt Nam Anh hùng, người nghèo, trẻ em khó khăn, người yếu thế trong xã hội.

Thứ tám, tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, thế trận lòng dân vững chắc; chủ động ứng phó, không để bị động, bất ngờ; giữ vững an ninh biên giới, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, an ninh, an toàn, an dân. Tiếp tục đẩy mạnh hội nhập quốc tế, phát triển mạnh kinh tế đối ngoại; tăng cường hợp tác chặt chẽ với các tỉnh biên giới.

Thứ chín, tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Xây dựng hệ thống cơ quan hành chính đoàn kết, thống nhất cao, liêm chính, dân chủ; hành động thiết thực, hiệu lực, hiệu quả, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể phục vụ; bảo đảm công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.

Thứ mười, có chương trình, giải pháp cụ thể để bảo vệ môi trường; không đánh đổi môi trường để đổi lấy tăng trưởng đơn thuần. Tăng cường đổi mới và ứng dụng khoa học, công nghệ; đẩy mạnh chống biến đổi khí hậu, nhất là chống sạt, lún, xâm nhập mặn, chiều cường; bảo vệ nguồn nước, nguồn lợi thủy sản. Thúc đẩy chuyển đổi năng lượng sạch, tập trung phát triển điện gió, điện mặt trời.

“Tôi tin tưởng rằng, với sự quyết tâm và vào cuộc quyết liệt của toàn bộ hệ thống chính trị, các cấp, các ngành và sự ủng hộ của các bạn bè quốc tế, trong thời gian tới, vùng ĐBSCL sẽ có sự phát triển mạnh mẽ và đột phá. ĐBSCL trở thành vùng có trình độ phát triển khá so với cả nước, có trình độ tổ chức xã hội tiên tiến; thu nhập của người dân ngày một nâng cao; người dân ngày càng ấm no, hạnh phúc, có thể làm giàu trên chính mảnh đất quê hương”, Thủ tướng kỳ vọng./.

Phác họa bức tranh toàn cảnh về thời cơ mới và vận hội mới của ĐBSCL Phác họa bức tranh toàn cảnh về thời cơ mới và vận hội mới của ĐBSCL
Nâng tầm ĐBSCL từ Nâng tầm ĐBSCL từ "vùng trũng" trở thành vùng bứt phá, phát triển bền vững
Phát triển nông nghiệp, nông thôn ĐBSCL theo hướng Phát triển nông nghiệp, nông thôn ĐBSCL theo hướng "nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh"
Hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển và đẩy mạnh liên kết vùng ĐBSCL Hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển và đẩy mạnh liên kết vùng ĐBSCL
Quy hoạch vùng ĐBSCL: Tư duy mới - Tầm nhìn mới - Cơ hội mới - Giá trị mới Quy hoạch vùng ĐBSCL: Tư duy mới - Tầm nhìn mới - Cơ hội mới - Giá trị mới
Đến năm 2030, phát triển vùng ĐBSCL trở thành trung tâm kinh tế nông nghiệp bền vững Đến năm 2030, phát triển vùng ĐBSCL trở thành trung tâm kinh tế nông nghiệp bền vững

Phương Anh

© Kinh tế và Dự báo - Bộ Kế hoạch và Đầu tư