Không gian tài khóa của Việt Nam còn khá lớn!

08:49 | 19/09/2022 Print
"So với các quốc gia khác trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, không gian tài khoá của Việt Nam còn khá lớn, nên trong trường hợp các cú sốc kinh tế bất ngờ xảy đến, Chính phủ vẫn có dư địa để đưa ra các gói kích thích kinh tế", chuyên gia chính xếp hạng tín nhiệm Quốc gia Việt Nam thuộc Moody’s Nishad Majmudar nói.
Không gian tài khóa của Việt Nam còn khá lớn!
Các vị đại biểu tham gia thảo luận bàn tròn, tọa đàm cấp cao về các nội dung với chủ đề “Củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, thúc đẩy phục hồi và phát triển bền vững”

Giải bài toán chính sách tiền tệ với nhiều yếu tố khác nhau

Tại phiên tọa đàm cấp cao Diễn đàn Kinh tế - Xã hội Việt Nam 2022 với chủ đề ‘’Củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, thúc đẩy phục hồi và phát triển bền vững” chiều ngày 18/9, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Phạm Thanh Hà cho biết, về điều hành chính sách tiền tệ nói chung, Ngân hàng Nhà nước phải giải bài toán với nhiều yếu tố khác nhau, mục tiêu đặt ra là kiểm soát lạm phát, đồng thời đảm bảo an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, đảm bảo thanh khoản cho các thị trường tiền tệ, ngoại hối. Các biến số như: lãi suất, tỷ giá đều được đưa vào bài toán tổng thể này.

Không gian tài khóa của Việt Nam còn khá lớn!
“Sau 10 năm, quy mô nền kinh tế tăng 2,7 lần; quy mô tín dụng tăng 4,4 lần. Năm nay, Ngân hàng Nhà nước đã tính toán mức tăng trưởng tín dụng hỗ trợ cho phát triển kinh tế khoảng 14%, là mức cao hơn hai năm trước”, Phó Thống đốc Phạm Thanh Hà cho biết.

Về chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng, trong hơn 10 năm qua, biện pháp hành chính đã thể hiện được sự hiệu quả trong ổn định hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng, góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối. Trước năm 2011, tăng trưởng tín dụng rất cao, ở mức trên 30%. Trong 10 năm trở lại đây, Ngân hàng Nhà nước đã cố gắng điều hành tăng trưởng tín dụng ở mức 12%-14%.

Phó Thống đốc khẳng định, để tăng trưởng kinh tế, cần nhiều nguồn vốn khác nhau, không chỉ là tín dụng ngân hàng, mà bản thân nền kinh tế cần có vốn, chủ thể đầu tư; các kênh dẫn vốn cho nền kinh tế gồm cổ phiếu, trái phiếu, đầu tư công, nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Vì thế cần khơi thông đầy đủ các kênh vốn này.

Trong nhiều năm trở lại đây, áp lực tăng trưởng tín dụng luôn ở mức cao. “Sau 10 năm, quy mô nền kinh tế tăng 2,7 lần; quy mô tín dụng tăng 4,4 lần. Năm nay, Ngân hàng Nhà nước đã tính toán mức tăng trưởng tín dụng hỗ trợ cho phát triển kinh tế khoảng 14%, là mức cao hơn hai năm trước”, Phó Thống đốc cho biết và khẳng định, trong bối cảnh nhiều biến động và thách thức, Ngân hàng Nhà nước vẫn cố gắng để đạt được mức cao này.

Sử dụng linh hoạt, hiệu quả chính sách tài khóa

Về định hướng chính sách của Bộ Tài chính, tại Diễn đàn, Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Chi cho biết, tác động của đại dịch cũng như những xung đột chính trị quốc tế gây ảnh hưởng nhiều mặt với nền kinh tế Việt Nam, gây đứt gãy chuỗi cung ứng, bất ổn thị trường lao động, tăng giá nguyên liệu đầu vào. Các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong ổn định sản xuất, kinh doanh.

Không gian tài khóa của Việt Nam còn khá lớn!
“Bộ Tài chính đã sẵn sàng nghiên cứu kỹ lưỡng, chủ động trong các giải pháp tài khóa, để có các phương án, kịch bản đa dạng ứng phó với tất cả các tình huống, đúng như phương châm “Dĩ bất biến ứng vạn biến” như Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã nêu”, Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Chi nhấn mạnh.

Trước tình hình đó, Quốc hội, Chính phủ sử dụng linh hoạt, hiệu quả chính sách tài khóa trong thời gian vừa qua. Thứ trưởng Bộ Tài chính nêu rõ, các chính sách miễn giảm, hoãn thuế đã có tác động trực tiếp đối với tình hình kinh tế, đời sống người dân.

Nhiều chính sách tài khóa, như gói chính sách tài chính hỗ trợ người lao động thuê nhà, gói hỗ trợ doanh nghiệp được triển khai đem lại hiệu ứng tích cực.

Vừa qua, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã có quyết sách đưa thuế bảo vệ môi trường với xăng dầu xuống mức sàn. Thay đổi này tạo ảnh hưởng nhanh chóng, được cử tri và nhân dân hưởng ứng. “Chính sách này còn được tiếp tục thực hiện đến ngày 31/12. Quốc hội, Chính phủ cũng đã có những quyết sách quan trọng, tạo điều kiện mở rộng nguồn cung, sẵn sàng cho các biến cố trong tình hình thế giới khó khăn, đảm bảo nguồn cung xăng dầu cho nền kinh tế”, ông Chi nói.

Bên cạnh đó, Chính phủ đang chỉ đạo Bộ Tài chính tiếp tục nghiên cứu các chính sách thuế về thuế bảo vệ môi trường, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt để trình Quốc hội trong kỳ họp sắp tới, để có công cụ linh hoạt ứng phó với các tình huống giá năng lượng, xăng dầu biến động mạnh, gây ảnh hưởng lớn đến đời sống người dân.

Tăng tín dụng của Việt Nam lên 14% không phải quá nới lỏng, nhưng cũng không phải thắt chặt

Chia sẻ rằng, việc lựa chọn chính sách tiền tệ và tài khóa trong trạng thái kinh tế lạm phát cao, rủi ro vĩ mô lớn, sản xuất đình trệ là rất phức tạp, khó khăn, thách thức, TS.Võ Trí Thành, nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương lý giải, nhà hoạch định chính sách đứng trước cả hai nguy cơ: lạm phát và suy thoái.

“Phần lớn các nước đã lựa chọn hy sinh tăng trưởng để kìm hãm lạm phát bằng các biện pháp thắt chặt, tăng lãi suất. Trong tình hình này, Việt Nam đã có lựa chọn khác, vừa thúc đẩy phục hồi, vừa ổn định kinh tế vĩ mô.”, ông Thành tổng kết.

Theo TS. Võ Trí Thành, lựa chọn này có cơ sở là cuối năm 2021, vị thế tài khóa ngân sách của Việt Nam tương đối tốt; thâm hụt, tỷ lệ nợ công của Việt Nam ở mức khả quan. Do vậy, Việt Nam đã quyết định dựa nhiều vào chính sách tài khóa. Ngay cả việc hỗ trợ 2% thuế giá trị gia tăng, nguồn tiền hỗ trợ đều nhờ ngân sách, chưa cần dùng đến chính sách tiền tệ.

“Việc lựa chọn này là hợp lý, do chính sách tài khóa ít khi gây áp lực cho lạm phát hơn, đồng thời cũng có dư địa lớn hơn so với chính sách tiền tệ. Việc tập trung vào chính sách tài khóa cũng đã tạo dư địa cho chính sách tiền tệ để ứng phó với những rủi ro bất định.”, ông Thành nêu quan điểm.

Vị chuyên gia này cũng nêu dẫn chứng rằng, kết quả của lựa chọn chính xác này là khi quốc tế có biến động mạnh, tình hình tài khóa của nước ta vẫn vững vàng, thu ngân sách 8 tháng đầu năm tăng cao.

“Chúng ta tiếp tục thực hiện nới tài khóa, cẩn thận và linh hoạt với chính sách tiền tệ”, ông Thành nêu hiện trạng.

Về chính sách tiền tệ, vị chuyên gia này đánh giá rằng, tăng trưởng tín dụng ở mức 14% là hợp lý về cả ngắn hạn lẫn dài hạn. Nếu nới lỏng hơn thì áp lực lên tỷ giá còn lớn, gây áp lực lên lãi suất, tạo nguy cơ "chảy máu" vốn.

“Tăng tín dụng của Việt Nam lên 14% không phải quá nới lỏng, nhưng cũng không phải thắt chặt, tỷ lệ tín dụng trên GDP là 124%, mức rất rủi ro, nhưng các hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã tăng vốn để đảm bảo an toàn. Đó sẽ là cơ sở để tính toán mức tăng tín dụng hợp lý”, ông Thành nói và cho rằng, cần vận dụng chính sách tiền tệ linh hoạt hơn nữa, tập trung vào sản xuất kinh doanh, hạn chế các lĩnh vực rủi ro, kiểm soát chặt chẽ phần đầu tư cho trung, dài hạn, để bổ sung cho một số lĩnh vực kinh doanh phù hợp tùy theo chu kỳ kinh doanh của ngành.

Không gian tài khóa của Việt Nam còn khá lớn!

Chuyên gia chính xếp hạng tín nhiệm Quốc gia Việt Nam thuộc Moody’s Nishad Majmudar phát biểu từ điểm cầu trực tuyến. Ảnh: Quochoi.vn

Chính phủ vẫn có dư địa để đưa ra các gói kích thích kinh tế

Vừa qua, tổ chức xếp hạng tín nhiệm Moody’s nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia dài hạn của Việt Nam từ mức Ba3 lên mức Ba2, triển vọng ổn định. Việt Nam là quốc gia duy nhất ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và là một trong 4 quốc gia trên thế giới được Moody’s nâng bậc tín nhiệm kể từ đầu năm đến nay.

Chuyên gia chính xếp hạng tín nhiệm Quốc gia Việt Nam thuộc Moody’s Nishad Majmudar đánh giá cao hiệu quả chính sách tài khóa của Việt Nam, đặc biệt là chính sách quản lý nợ mang tầm nhìn xa của Chính phủ. Điều này bao gồm việc giảm tỷ trọng các khoản vay nước ngoài và chuyển dịch sang vay thương mại nội địa sử dụng Việt Nam đồng. Qua đó, góp phần làm giảm áp lực tổng vay nợ cho Chính phủ, đồng thời làm giảm rủi ro tái cấp vốn theo thời gian.

Nhắc đến sức mạnh tài khóa, ông Nishad Majmudar chỉ ra rằng, bất chấp những sự kiện không có lợi diễn ra trên toàn thế giới, bao gồm đại dịch Covid-19, Chính phủ Việt Nam vẫn có thể duy trì một lập trường tài khóa khôn khéo, bao gồm duy trì thâm hụt tài khóa ở mức vừa phải cũng như duy trì mức độ nợ ổn định.

Chuyên gia Nishad Majmudar bày tỏ lạc quan về triển vọng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam với mức tăng từ 6% - 7 % trong trung hạn. Việt Nam đang là một trong số những quốc gia dẫn đầu về tăng trưởng kinh tế trong khu vực. Mặt khác, một trong số những rủi ro cần xét đến là giá cả và áp lực lạm phát. Cụ thể, trong lĩnh vực sản xuất, Việt Nam vẫn đang phải nhập khẩu một số nguyên liệu thành phần phục vụ xuất khẩu. Chuyên gia Nishad Majmudar kỳ vọng rằng, Việt Nam sẽ thu hẹp thặng dư cán cân thanh toán trong vài năm tới khi động lực tăng trưởng của xuất khẩu yếu dần đi và giá nguyên liệu đầu vào gia tăng.

Về tương lai, ông Nishad Majmudar cho rằng, vẫn còn nhiều sự kiện không thuận lợi liên quan đến vấn đề suy giảm kinh tế toàn cầu. Do đó, ông khuyến nghị Việt Nam phải tính toán kỹ về “bộ đệm” mang tên dự trữ ngoại hối được tích lũy trong nhiều năm qua. "Bộ đệm" này nhiều khả năng sẽ bắt đầu giảm dần trong vài năm tới./.

An Nhi

© Kinh tế và Dự báo - Bộ Kế hoạch và Đầu tư