e-ISSN: 2734-9365

Trang chủ/Tài chính - Ngân hàng

Thị trường tài chính Việt Nam 2023, nhận diện rủi ro, thách thức và một số đề xuất chính sách

10:20 | 24/01/2023 Print
Về tổng quan, thị trường tài chính Việt Nam 2022 đã đạt được những kết quả tích cực. Tuy nhiên, bước vào năm 2023 vẫn tiềm ẩn không ít rủi ro cần được nhận diện rõ và có giải pháp phù hợp để đảm bảo thị trường phát triển lành mạnh, tiếp tục đóng vai trò huyết mạch của nền kinh tế.

1. Tổng quan thị trường tài chính 2022

1.1. Về thị trường ngân hàng

Cơ sở pháp lý tiếp tục được hoàn thiện, phù hợp với bối cảnh phục hồi sau dịch Covid-19, tập trung vào xử lý nợ xấu, cơ cấu lại hệ thống TCTD, chuyển đổi số và triển khai gói hỗ trợ lãi suất thuộc Chương trình phục hồi 2022-2023; Chính sách tiền tệ tiếp tục được NHNN điều hành linh hoạt, thận trọng trong xu hướng thắt chặt tiền tệ chung của thế giới; Quy mô hoạt động và năng lực tài chính của TCTD được cải thiện.

Chất lượng tài sản của TCTD năm 2022 cơ bản ổn định, với tỷ lệ nợ xấu nội bảng tăng nhưng nợ xấu gộp giảm so với cuối năm 2021 và tín dụng lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro tiếp tục được kiểm soát; Năng lực quản trị điều hành được nâng cao, tình trạng sở hữu chéo cơ bản đã được xử lý. Theo NHNN, năm 2022, tại Việt nam đã có 20 NHTM được công nhận áp dụng chuẩn Basel II theo Thông tư 41/2016. Cuối năm 2019, NHNN đã ban hành; Lợi nhuận trước thuế (LNTT) của các NHTM tiếp tục khả quan trong năm 2022.

1.2. Thị trường chứng khoán

Thị trường cổ phiếu

Tuy đang trải qua giai đoạn sóng gió, thị trường cổ phiếu Việt Nam vẫn có triển vọng tích cực trong cuối năm 2022 và năm 2023, khi tăng trưởng GDP đạt mức cao, lạm phát kiểm soát ở mức thấp so với thế giới, tình hình sản xuất - kinh doanh, khả năng sinh lời của doanh nghiệp niêm yết cũng tương đối khả quan (số liệu từ báo cáo tài chính cho thấy lợi nhuận trước thuế của 200 doanh nghiệp lớn nhất trên TTCK Việt Nam trong 9T.2022 tăng khoảng 20% so với cùng kỳ). Một số hành vi sai phạm như thao túng thị trường bị xử lý cũng giúp thị trường trở nên lành mạnh hơn, tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững trong dài hạn.

Thị trường trái phiếu

Về hành lang pháp lý, Nghị định 65 đã được ban hành, trong đó siết chặt hơn hoạt động phát hành trái phiếu riêng lẻ. Nghị định 65 (2022) được kỳ vọng sẽ giúp thị trường trở nên an toàn và phát triển bền vững hơn, nhưng cũng cần có lộ trình phù hợp hơn. Bên cạnh đó, trong năm 2022, các cơ quan quản lý đã quyết liệt xử lý các vi phạm liên quan đến phát hành TPDN (như trường hợp của Tân Hoàng Minh và Vạn Thịnh Phát), qua đó giúp lành mạnh hóa thị trường trong dài hạn.

Chứng khoán phái sinh

Năm 2022, thị trường chứng khoán phái sinh (CKPS) Việt Nam đã có sự tăng trưởng rất tích cực, phát huy vai trò phòng vệ rủi ro trong điều kiện thị trường cơ sở có nhiều biến động.

Cơ cấu nhà đầu tư đã có sự dịch chuyển tích cực hơn khi giảm dần tỷ trọng giao dịch của nhà đầu tư cá nhân và tăng tỷ trọng của nhà đầu tư tổ chức.

Cơ sở pháp lý, các quy định điều tiết thị trường CKPS cũng ngày càng được hoàn thiện hơn. Quyết định số 61/QĐ-VSD ngày 16/05/2022 của Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam về việc ban hành quy chế bù trừ và thanh toán giao dịch CKPS giúp giảm thiểu hiện tượng thao túng thị trường bằng cách thay đổi phương pháp tính giá thanh toán cuối cùng của HĐTL VN30. Bộ Tài chính cũng đã ban hành Chỉ thị số 02 ngày 05/09/2022 về việc tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát đảm bảo an toàn, ổn định thị trường chứng khoán. Hiện nay, dự thảo Chiến lược phát triển TTCK đến năm 2030 đặt ra nhiều mục tiêu quan trọng, bao gồm mục tiêu tăng trưởng trung bình 20-30% mỗi năm của thị trường CKPS trong giai đoạn 2022-2030.

1.3. Về thị trường bảo hiểm

Thị trường duy trì tốc độ tăng trưởng tốt trong giai đoạn 2016-2022. Tốc độ tăng trưởng bình quân của thị trường bảo hiểm giai đoạn 2016-2022 đạt trên 20%/năm.

Thị trường bảo hiểm nhân thọ có tốc độ tăng trưởng tốt. Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ tăng trưởng mạnh trở lại sau khi bị ảnh hưởng của dịch bệnh trong năm 2021 (tăng trưởng 1,8%).

Trong báo cáo “Triển vọng thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam” của AM Best – Công ty toàn cầu chuyên xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp bảo hiểm của Mỹ, thị trường bảo hiểm phi nhân thọ của Việt Nam được đánh giá là có triển vọng ổn định. AM Best dự báo tốc độ tăng trưởng sẽ được duy trì, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang cơ cấu lại toàn bộ nền kinh tế theo hướng phục hồi bền vững sau đại dịch.

2. Nhận diện rủi ro, thách thức đối với thị trường tài chính Việt Nam 2023

Mặc dù về tổng thể thị trường tài chính Việt Nam 2022 có những điểm sáng nhưng bước vào năm 2023 vẫn tiềm ẩn không ít rủi ro cần được nhận diện rõ và có giải pháp phù hợp để đảm bảo thị trường phát triển lành mạnh, tiếp tục đóng vai trò huyết mạch của nền kinh tế.

2.1. Thị trường ngân hàng Việt Nam

Thứ nhất, một số văn bản pháp lý về chuyển đổi số chậm ban hành hoặc gặp nhiều khó khăn khi triển khai như gói hỗ trợ lãi suất 2% thuộc Chương trình phục hồi. Dự thảo Nghị định của Chính phủ về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động công nghệ tài chính trong lĩnh vực ngân hàng đã gửi xin ý kiến lần 2 vào năm 2022 (lần 1 vào năm 2020) nhưng vẫn chưa được ban hành. Ngoài ra, dự thảo sửa đổi Thông tư 39/2016 của NHNN cho phép các TCTD cho vay qua phương thức điện tử cũng chưa được ban hành, hạn chế khả năng phê duyệt tín dụng online,…v.v.

Thực hiện Thông tư 03/2022 của NHNN hướng dẫn Nghị định 31/2022/NĐ-CP ngày 20/5/2022 về hỗ trợ lãi suất từ ngân sách Nhà nước đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh, các TCTD đã thực hiện giải ngân gói hỗ trợ 2% của Chính phủ nhưng với tiến độ rất chậm. Nguyên nhân xuất phát từ: (i) Theo khảo sát của NHNN, khách hàng chưa thực sự quan tâm đến gói hỗ trợ do e ngại thanh, kiểm tra sau này, (ii) Khó xác định chính xác đối tượng hỗ trợ vì có nhiều doanh nghiệp, hộ kinh doanh hoạt động đa ngành nghề hoặc chưa đăng ký kinh doanh, và (iii) Khó xác định được tiêu chí “có khả năng phục hồi” trong bối cảnh môi trường kinh doanh khó lường như hiện nay.

Thứ hai, dư địa chính sách tiền tệ đã bị thu hẹp. Đến hết tháng 11/2022, NHNN đã phải tăng lãi suất 2 đợt (1%/đợt) để ổn định tỷ giá, trong khi các công cụ khác gần như đã sử dụng hết dư địa. Dự trữ ngoại hối hiện nay vừa mức khuyến nghị của IMF (3 tháng nhập khẩu). Cùng với đó, theo nhóm nghiên cứu, việc điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng/giảm sẽ không đạt hiệu quả như kỳ vọng vì các NHTM còn phải tuân thủ các tỷ lệ đảm bảo an toàn hoạt động theo Thông tư 22/2019 của NHNN và biện pháp này thường áp dụng khi nền kinh tế gặp các cú sốc lớn. Biên độ giao dịch tỷ giá trung tâm cũng đã nới lên mức 5%...v.v. Do vậy, với khả năng FED tiếp tục tăng lãi suất 50 điểm % trong tháng 12/2022 và quý 1/2023, áp lực lãi suất và tỷ giá tăng còn khá lớn. Bên cạnh đó, việc NHNN tiếp tục duy trì công cụ hạn mức tín dụng trong năm 2022-2023 để kiểm soát lạm phát mục tiêu và thanh khoản hệ thống ngân hàng, trong bối cảnh thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) ảm đạm, giải ngân đầu tư công còn chậm, khiến việc tiếp cận vốn của doanh nghiệp còn khó khăn.

Thứ ba, hệ số an toàn vốn (CAR) của các NHTM Việt Nam cải thiện chậm và ở mức thấp so với khu vực. Tính đến tháng 6/2022, xét các NH áp dụng Thông tư 41/2016, hệ số an toàn vốn của của các NHTM nhà nước giảm nhẹ so với cuối năm 2021 từ mức 9% xuống 8,9%. Ngược lại, các NHTMCP tăng từ 11,9% lên 12%, và mức an toàn vốn này tương đối thấp khi so sánh với các nước trong khu vực. Chưa kể các nước trong khu vực đã thực hiện áp dụng Basel 3 hoặc một phần của Basel 3, trong khi các NHTM Việt Nam mới đang trong giai đoạn triển khai Basel 2. Mức đệm vốn của các TCTD ở mức thấp làm hệ thống ngân hàng dễ bị tác động tiêu cực từ các cú sốc bất lợi từ môi trường kinh doanh. Nguyên nhân chủ yếu đến từ việc tăng vốn của các NHTM (đặc biệt là các NHTMNN) còn gặp nhiều khó khăn (do thị trường vốn suy giảm, việc tìm kiếm NĐT ngoại khó hơn trong bối cảnh KTTG suy thoái nhẹ, khâu phê duyệt cho phép giữ lại cổ tức Nhà nước và lựa chọn NĐT chiến lược, NĐT tài chính còn chậm…v.v.).

Thứ tư, dự báo nợ xấu của nền kinh tế năm 2023 sẽ gia tăng cùng với chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN. Triển vọng năm 2023, lãi suất tăng sẽ làm tăng nghĩa vụ trả nợ của bên vay (cá nhân và doanh nghiệp), trong khi kinh tế phục hồi chậm lại, tăng trưởng thấp hơn như nêu trên, dẫn đến nợ xấu tiềm ẩn gia tăng. Dự báo, năm 2023, nợ xấu nội bảng ở mức 2%, nợ xấu gộp khoảng 4%. Trong khi đó, mức nợ xấu gộp của hệ thống TCTD Việt Nam khoảng 4,99%, ở mức cao khi so sánh với các nước trong khu vực.

Thứ năm, khi mà sở hữu chéo của hệ thống ngân hàng đã cơ bản được loại bỏ, tuy nhiên hiện tượng cổ đông, nhóm cổ đông lớn có tác động nhất định đến hoạt động đầu tư hoặc tín dụng. Các TCTD luôn đảm bảo tuân thủ các tỷ lệ an toàn (bao gồm hạn chế, giới hạn cấp tín dụng; giới hạn góp vốn mua cổ phần…v.v.) tại Thông tư 22/2019 của NHNN, nhưng tình trạng công ty liên kết, có liên quan hoạt động tinh vi, có tác động nhất định đến hoạt động đầu tư hoặc tín dụng. Mặc dù khó có thể đưa ra bằng chứng xác thực về hành vi này nhưng những vụ việc vi phạm của một số tập đoàn BĐS vừa qua đã bộc lộ tính chất liên quan này.

Thứ sáu, thanh khoản của hệ thống ngân hàng không còn dồi dào như 2 năm qua. Sau giai đoạn giảm liên tiếp từ mức 34,5% năm 2016 xuống 24% năm 2021, tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn của hệ thống tăng dần lên mức 25,2% vào tháng 6/2022; tỷ lệ dư nợ cho vay/huy động vốn tăng từ 72,1% năm 2021 lên 74,1% vào tháng 6/2022. Đồng thời, tài sản mang tính thanh khoản cao như tiền gửi của TCTD tại NHNN giảm.

Tín dụng tăng cao trong năm 2022 so với năm 2020-2021 trong xu hướng phục hồi của nền kinh tế. Năm 2022, tăng trưởng tín dụng toàn nền kinh tế tăng xấp xỉ 13%. Lý do NHNN điều tiết thận trọng tăng trưởng tín dụng năm 2022 vì: (i) Hạn mức tăng trưởng tín dụng là giải pháp kiểm soát cung tiền, từ đó góp phần kiểm soát lạm phát, (ii) Lo ngại rủi ro thanh khoản hệ thống, ảnh hưởng mục tiêu ổn định lãi suất và an toàn hệ thống. Tuy nhiên, NHNN cũng đang có kế hoạch, look trình bỏ đi công cụ hạn mức này ở thời điểm phù hợp; chúng tôi cho rằng nên là 1-2 năm tới.

Trong khi đó, huy động vốn năm 2022 của TCTD tăng chậm lại so với năm 2020- 2021, do dòng tiền đổ vào sản xuất kinh doanh, tiêu dùng và trang trải chi phí đầu vào tăng. Theo TCTK, tính đến hết tháng 11/2022, huy động vốn của các TCTD ước tăng 5,5%, thấp hơn cùng kỳ năm trước (6%); theo đó, M2 chỉ tăng khoảng gần 7%, thấp so với mức 9% cùng kỳ năm 2021. Nguyên nhân chính của việc huy động vốn của các TCTD tăng thấp bao gồm: (i) Lạm phát, giá cả và chi phí tăng, DN cần nhiều vốn hơn để trang trải chi phí tăng thêm; lãi suất và tỷ giá tăng cũng làm tăng chi phí tài chính của DN; (ii) Vốn tín dụng ngân hàng kiểm soát mức tăng 15,5% trong khi phát hành TPDN khó khăn hơn, buộc DN dùng vốn tự có nhiều hơn; (iii) Giải ngân đầu tư công chậm, khiến vòng quay tiền chậm, nợ lẫn nhau giữa các DN tăng; (iv) Thị trường BĐS, chứng khoán trầm lắng và đang trong giai đoạn lành mạnh hóa, cũng kéo theo một phần vốn trên hai thị trường này bị tồn đọng; (v) dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài chỉ tăng nhẹ trong điều kiện lãi suất USD tăng và TTCK suy giảm, môi trường đầu tư rủi ro răng.

Thứ bảy, tỷ trọng thu dịch vụ ròng/tổng thu nhập ròng chưa có dấu hiệu cải thiện trong năm 2022 và ở mức thấp so với các nước trên thế giới. Tỷ trọng thu dịch vụ ròng/tổng thu nhập ròng tăng dần trong giai đoạn 2019-2021, song lại sụt giảm trong 9 tháng năm 2022. Nguyên nhân chính là do nhiều TCTD đã tiếp tục miễn, giảm phí dịch vụ ngân hàng số nhằm tiếp tục hỗ trợ người dân, DN và cũng là để thu hút khách hàng và tăng huy động vốn không kỳ hạn. Bên cạnh đó, thu từ hoạt động M&A và dịch vụ ngân hàng đầu tư chưa phổ biến hoặc gặp khó khăn khi TTCK Việt Nam điều chỉnh mạnh (nêu trên). Điều này làm tỷ trọng thu từ hoạt động dịch vụ tại các NHTM Việt Nam giảm nhẹ (khoảng 10,5%), thấp hơn nhiều so với các nước khác như Mỹ (33-37%), Nhật (33-39%), EU (33- 35%), Thái Lan (27-29%), Trung Quốc (16-22%). Do đó, mục tiêu đạt 16-17% đến năm 2025 trở lên khó khăn hơn.

Thứ tám, tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn (KKH) – nguồn vốn chi phí thấp đang có xu hướng giảm trong năm 2022. Nguyên nhân là do lãi suất tiết kiệm có kỳ hạn tăng nhanh và trở nên hấp dẫn hơn, chênh lệch giữa không kỳ hạn, kỳ hạn ngắn và kỳ hạn dài mở rộng, dòng tiền nhàn rỗi đã chuyển dịch từ gửi không kỳ hạn sang gửi tiết kiệm có kỳ hạn để hưởng lãi suất cao hơn. Đồng thời, huy động vốn khó khăn vì người dân chuyển sang tiêu dùng và doanh nghiệp chuyển vào sản xuất - kinh doanh, trang trải chi phí như nêu trên.

2.2. Thị trường chứng khoán

Thị trường cổ phiếu

Thứ nhất, dòng tiền vào TTCK Việt Nam sụt giảm mạnh so với 2 năm trước. Hiện tượng này là do hầu hết những dòng tiền chính đổ vào TTCK Việt Nam thời gian qua đều giảm. Cụ thể, nhà đầu tư nước ngoài không còn được tiếp cận nguồn vốn giá rẻ dễ dàng như trước do các gói hỗ trợ đã chấm dứt, lãi suất thấp đã không còn, thanh khoản thị trường tài chính toàn cầu eo hẹp hơn và hệ thống ngân hàng toàn cầu cũng thắt chặt điều kiện cho vay do e ngại rủi ro suy thoái, rủi ro tài chính toàn cầu tăng lên.

Bên cạnh đó, dòng tiền của nhà đầu tư trong nước cũng bị hạn chế trong bối cảnh doanh nghiệp gặp khó khăn hơn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng do năng lực tài chính suy giảm, hạn mức tăng trưởng tín dụng kiểm soát chặt chẽ; phát hành TPDN khó khăn hơn sau những vụ việc vi phạm qui định vừa qua và qui định luật pháp theo hướng chặt chẽ hơn; giải ngân đầu tư công còn chậm, vòng quay vốn chậm, chi phí đầu vào tăng và doanh nghiệp nợ đọng lẫn nhau... khiến lượng vốn dành cho hoạt động đầu tư của DN bị giảm đi đáng kể. Nhà đầu tư cá nhân cũng hạn chế vay ký quỹ để đầu tư chứng khoán trong bối cảnh thị trường biến động mạnh và rủi ro gia tăng.

Thứ hai, TTCK chịu áp lực giải chấp. Dù dư nợ cho vay ký quỹ đã giảm 18% từ mức đỉnh cuối quý 1/2022 (201.200 tỷ đồng) song vẫn là mức cao trong vòng 2 năm 2020- 2021 (cao hơn giai đoạn thị trường tăng trưởng mạnh). Việc giá cổ phiếu giảm mạnh đã dẫn đến việc một số nhà đầu tư sở hữu nhiều cổ phiếu đã bị các công ty chứng khoán bán giải chấp (hiện tượng force sell) để bù đắp phần sụt giảm của giá cổ phiếu dùng thế chấp cho các khoản vay ký quỹ, cũng là để hạ tỷ lệ nợ về mức an toàn theo quy định.

Thứ ba, niềm tin của nhà đầu tư chứng khoán giảm mạnh. Bên cạnh những tác động tiêu cực từ bối cảnh kinh tế thế giới cũng như rủi ro, thách thức gia tăng; tâm lý nhà đầu tư còn chịu ảnh hưởng từ những vụ việc vi phạm pháp luật, khởi tố, bắt tạm giam lãnh đạo của một số doanh nghiệp lớn, cùng các biện pháp chấn chỉnh TTCK và BĐS trong thời gian qua, cùng với một số thông tin sai sự thật trên mạng xã hội. Không chỉ cổ phiếu của những doanh nghiệp vi phạm mà còn cả những cổ phiếu khác cũng bị bán tháo do tâm lý lo ngại, thận trọng lan rộng, dẫn đến nhiều giá cổ phiếu giảm sàn. Việc xử lý, giải quyết và tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, rào cản pháp lý còn chậm cũng có tác động nhất định đến thị trường và niềm tin của nhà đầu tư. Nhiều nhà đầu tư đang bắt đầu dịch chuyển sang những kênh đầu tư ít rủi ro hơn như tiền gửi ngân hàng (đặc biệt trong bối cảnh lãi suất huy động đang tăng lên), dẫn đến việc thanh khoản thị trường sụt giảm, từ đó tạo ra vòng xoáy tác động tiêu cực đến tâm lý nhà đầu tư cá nhân và kéo giá cổ phiếu tiếp tục giảm sâu.

Thứ tư, tâm lý đám đông khá phổ biến trên thị trường. Tác động của tâm lý đám đông lên TTCK Việt Nam còn đặc biệt mạnh hơn so với ở những quốc gia khác do ba nguyên nhân sau: (i) cơ cấu nhà đầu tư ở Việt Nam có điểm khác biệt so với các thị trường mới nổi và phát triển khác khi nhà đầu tư cá nhân chiếm tới 80% giao dịch trên thị trường (trong khi tỉ lệ này ở những quốc gia phát triển chỉ khoảng 40–50%, còn lại là nhà đầu tư tổ chức). Đặc điểm của nhóm nhà đầu tư cá nhân này là họ đưa ra quyết định đầu tư không dựa trên lý trí hay phân tích tài chính, mà mua bán chủ yếu theo tin đồn, và một lượng lớn nhà đầu tư không có hiểu biết về tài chính; (ii) tỷ lệ sử dụng đòn bẩy tài chính cao, cộng hưởng cùng tâm lý bầy đàn của nhà đầu tư, đã tạo ra vòng xoáy giá xuống – bán giải chấp, khiến thị trường càng chịu áp lực bán mạnh mỗi khi có sự điều chỉnh; (iii) TTCK Việt Nam lâu nay đã xuất hiện tình trạng một số doanh nghiệp thổi giá, giá cổ phiếu cao hơn nhiều lần giá trị thực, khiến nhà đầu tư có tâm lý không coi trọng những đánh giá, phân tích khách quan, do vậy họ thường xuyên chuyển đổi trạng thái rất nhanh từ “hưng phấn quá mức” đến “bi quan quá đà” mỗi khi thị trường có điều chỉnh.

Thị trường trái phiếu

Đến hết tháng 10/2022, trên thị trường sơ cấp, Kho bạc Nhà nước (KBNN) phát hành thành công 139,4 nghìn tỷ đồng, hoàn thành 35% kế hoạch năm 2022 (giảm 36% so với cùng kỳ năm 2021). Kỳ hạn phát hành vẫn tập trung chủ yếu ở kỳ hạn 10 năm và 15 năm, chiếm khoảng 92% tổng khối lượng gọi thầu. Lãi suất phát hành có xu hướng giảm khoảng 10-20 điểm % so với cuối năm 2020, đóng cửa cuối năm ở mức 2,08%/năm với kỳ hạn 10 năm và 2,33%/năm với kỳ hạn 15 năm. Trên thị trường thứ cấp, trong tháng 10, giá trị giao dịch thông thường (Outright) là 47.502 tỷ đồng (giảm 16,6% so với tháng trước) và giao dịch mua bán lại (Repo) là 37.288 tỷ đồng (giảm 52,6% so với tháng trước). Lợi suất trung bình TPCP tiếp tục tăng trong tháng 10, từ 0,85% đến 1,29% tại tất cả các kỳ hạn so với trung bình tháng trước, do áp lực sau 2 đợt tăng lãi suất điều hành của NHNN vào tháng 9 và tháng 10.

Trái phiếu doanh nghiệp, với quy mô phát hành lớn trong giai đoạn 2018-2021 và thời hạn khoảng 4 năm thì sẽ có một khối lượng TPDN đáng kể sẽ đáo hạn trong giai đoạn 2023- 2025 (khoảng hơn 700 nghìn tỷ đồng, chưa tính tiền lãi). hai nhóm ngành phát hành TPDN nhiều nhất là NHTM và bất động sản. Trong đó, TPDN được phát hành bởi các ngân hàng thương mại hầu như rất ít rủi ro, do đặc thù riêng có: (i) chủ yếu được phát hành bởi các ngân hàng có quy mô lớn, kết quả kinh doanh khá tốt và ổn định; (ii) tính công khai, minh bạch được đảm bảo do các đa số NHTM đã được kiểm toán độc lập, kiểm toán quốc tế và niêm yết trên sàn chứng khoán; (iii) việc phát hành trái phiếu của NHTM phải tuân thủ các quy định chặt chẽ của NHNN về các tỷ lệ đảm bảo an toàn; (iv) mục đích phát hành rõ ràng (chủ yếu là để tăng vốn cấp 2, đảm bảo đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn theo các chuẩn mực quốc tế như Basel II); (v) NHTM có quỹ DPRR để dự phòng cho hoạt động tín dụng và đầu tư. Vì lẽ đó, các NHTM phát hành trái phiếu thường không có tài sản đảm bảo (chủ yếu đảm bảo bởi các đặc thù trên) và quy trình, thủ tục cũng có những khác biệt so với DN SXKD thông thường. Đối với nhóm bất động sản, các DN BĐS đã phát hành gần 215 nghìn tỷ đồng năm 2021 và 50 nghìn tỷ đồng TPDN 10 tháng đầu năm 2022 (xếp thứ 2 về khối lượng, sau các TCTD), với lãi suất trung bình là 10,35%/năm (theo VBMA). DN BĐS chiếm tỷ trọng 20% lượng trái phiếu phát hành, chỉ sau các TCTD. Theo đó, lượng trái phiếu đáo hạn của các DN BĐS cũng rất lớn, nhất là 2 năm tới (khoảng 115 nghìn tỷ đồng/năm), chưa tính tiền lãi.

Để giải quyết vấn đề này, nếu như trong điều kiện thông thường, các DN sẽ tìm nguồn vốn mới (từ phát hành TPDN, vay ngân hàng, phát hành cổ phiếu…) để đảo nợ và duy trì, phát triển SX-KD. Tuy nhiên, khả năng gọi vốn của các DN trong thời gian tới sẽ còn khó khăn do: (i) những vi phạm liên tiếp đã làm niềm tin của các nhà đầu tư suy giảm đáng kể, nhà đầu tư cá nhân cũng đã trở nên e ngại hơn sau các vụ việc vừa qua; (ii) Nghị định 65/2022 đã đưa ra những quy định chặt chẽ hơn đối với phát hành TPDN riêng lẻ (trong tháng 10/2022, chỉ có 1 đợt phát hành TPDN trị giá 210 tỷ VND, giảm 99% so với tháng trước); (iii) Nguồn vốn tín dụng dành cho đối tượng này là không nhiều do phải ưu tiên cho SXKD và trong bối cảnh hạn mức tăng trưởng tín dụng vẫn khoảng 14-15% để kiểm soát lạm phát và thanh khoản hệ thống TCTD; (iv) Thị trường chứng khoán không còn sôi động như giai đoạn trước, nên huy động vốn qua kênh này còn khó khăn; (v) việc bán hàng, phát mại tài sản để trả nợ cũng không dễ dàng (do thị trường BĐS đang trầm lắng, phục hồi chậm). Vì thế, một bộ phận DN (nhất là lĩnh vực BĐS) có tiềm ẩn nguy cơ vỡ nợ trái phiếu, nếu không có giải pháp phù hợp, kịp thời. Khi đó, hệ lụy của việc vỡ nợ này là lớn, phức tạp, cần kiểm soát vì mối quan hệ liên thông giữa ngân hàng - chứng khoán – BĐS là khá lớn.

Chứng khoán phái sinh (CKPS)

Mặc dù có những bước phát triển mạnh mẽ trong năm 2022, thị trường CKPS cũng bộc lộ nhiều tồn tại cần phải được quan tâm giải quyết.

Thứ nhất, cơ cấu sản phẩm của thị trường CKPS còn rất hạn chế, chỉ bao gồm hai dòng sản phẩm chính là dòng sản phẩm Hợp đồng tương lai (HĐTL) trên chỉ số VN30 và dòng sản phẩm HĐTL trên trái phiếu chính phủ (TPCP), còn chưa có các sản phẩm khác như HĐTL trên chỉ số cố phiếu khác, HĐTL trên cổ phiếu đơn lẻ, hợp đồng quyền chọn, v.v. - các sản phẩm phái sinh mới này chưa có lộ trình triển khai cụ thể. Do đó, nhà đầu tư nhiều khả năng phải chờ đợi thêm trong trung hạn). Trong đó, HĐTL TPCP có thanh khoản không cao và cũng thiếu sự hấp dẫn đối với nhà đầu tư. Trên thực tế, nhà đầu tư cá nhân chỉ có thể tiếp cận HĐTL trên chỉ số VN30, còn HĐTL TPCP chỉ có thể tham gia bởi nhà đầu tư tổ chức và nhà đầu tư cá nhân chuyên nghiệp.

Thứ hai, tài sản cơ sở của HĐTL trên chỉ số chính là chỉ số VN30 (bao gồm 30 mã cổ phiếu có giá trị vốn hóa thị trường cao và tính thanh khoản tốt nhất được niêm yết trên sàn chứng khoán HSX), do đó có thể xảy ra hiện tượng can thiệp, thao túng giá trên thị trường cơ sở để đưa chỉ số VN30 về mức mong muốn.

Thứ ba, mặc dù cơ cấu nhà đầu tư trên thị trường CKPS có sự chuyển biến tích cực như đã đề cập ở trên, tuy nhiên vẫn phải nhìn nhận thực tế rằng số lượng nhà đầu tư tổ chức vẫn còn rất hạn chế (đây cũng có thể là một nguyên nhân khiến cho giao dịch các HĐTL TPCP còn khá khiêm tốn). Bên cạnh đó, tỷ trọng của khối ngoại trên thị trường CKPS Việt Nam vẫn còn khá khiêm tốn.

Thứ tư, tỷ trọng các hợp đồng mở (IO) còn chiếm tỷ trọng thấp cho dù khối lượng giao dịch trung bình phiên của HĐTL chỉ số VN30 ngày càng gia tăng, qua đó phản ánh các nhà đầu tư chủ yếu thực hiện lướt sóng chứ không nắm giữ kỳ hạn dài.

3. Thị trường bảo hiểm

Thị trường bảo hiểm gặp phải 3 thách thức chính năm 2023.

Thứ nhất, năm 2023, khả năng tỷ lệ bồi thường gia tăng (do các hoạt động KT-XH đã trở lại bình thường sau dịch bệnh), trong khi nhu cầu bảo hiểm mới tăng chậm lại (do kinh tế dự báo khó khăn hơn) và hoạt động đầu tư suy giảm (do TTCK giảm mạnh…).

Thứ hai, theo quy định mới của pháp luật, từ năm 2023, công ty bảo hiểm được quyền tự do đầu tư, kinh doanh, mà chỉ hạn chế một số lĩnh vực rủi ro nhằm bảo đảm an toàn. Theo đó, các công ty bảo hiểm có quyền tự quyết lớn hơn với các nguồn vốn đầu tư của mình. Tuy nhiên, quy định chi tiết về hạn mức đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm với từng loại tài sản tài chính chưa được thông qua trong khi thời gian còn lại là không nhiều.

Thứ ba, minh bạch thông tin trên thị trường bảo hiểm nhân thọ. Mặc dù là sản phẩm tốt, nhưng bảo hiểm nhân thọ lại thường xảy ra một số trường hợp gây tranh cãi khi xử lý các bồi thường liên quan gây ảnh hưởng đến tâm lý người tham gia bảo hiểm cũng như cản trở sự phát triển của thị trường. Các vấn đề phát sinh từ việc thực hiện bán chéo qua kênh ngân hàng chưa hợp lý (bắt buộc mua bảo hiểm với các sản phẩm tín dụng mà chưa giải thích rõ với khách hàng) hoặc các đại lý bảo hiểm tư vấn chưa đầy đủ, hợp đồng bảo hiểm đôi khi khó hiểu hoặc dài dòng, điều kiện bảo hiểm không rõ ràng...v.v.

3. KIẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH

3.1. Đối với Quốc hội, Chính phủ

Thứ nhất, tiếp tục kiên định ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế. Trong đó, các cơ quan quản lý Nhà nước cần tiếp tục bám sát tình hình kinh tế, tài chính quốc tế; chủ động phân tích, dự báo diễn biến thị trường tài chính - tiền tệ quốc tế để có kịch bản chủ động ứng phó phù hợp; nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa CSTT, CSTK và các chính sách vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát, cân bằng giữa kiểm soát và thúc đẩy tăng trưởng, giữa lãi suất và tỷ giá...v.v.

Thứ hai, tiếp tục đẩy nhanh các cấu phần trong Chương trình phục KT-XH 2022- 2023, các chương trình mục tiêu quốc gia và giải ngân đầu tư công. Thực hiện đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả các cấu phần đang triển khai chậm; đẩy mạnh giải ngân đầu tư công; triển khai kịp thời và hiệu quả gói hỗ trợ lãi suất 2% quy mô 40 nghìn tỷ đồng nhằm hỗ trợ tài chính cho DN, tăng tính lan tỏa, giảm áp lực vốn tín dụng, giảm nợ đọng; phấn đấu hết năm, đạt khoảng 85-90% kế hoạch giải ngân đầu tư công.

Thứ ba, Chính phủ có đề án, kế hoạch cụ thể về giải quyết bài toán vốn cho doanh nghiệp, hộ gia đình vừa đảm bảo phục hồi, phát triển KT-XH, vừa đảm bảo an ninh, an toàn hệ thống tài chính – BĐS; trong đó, cần sớm giải quyết rủi ro TPDN, nhất là nhóm DN BĐS (Nhóm nghiên cứu có đề xuất riêng).

Thứ tư, hoàn thiện thể chế, tăng cường kiểm tra, giám sát, nâng cao tính minh bạch, chuyên nghiệp và hiệu quả cho thị trường tài chính, quan tâm kiểm soát rủi ro hệ thống tài chính: (i) Nghiên cứu ban hành Luật bảo vệ nhà đầu tư và thành lập Quỹ bảo vệ nhà đầu tư như kinh nghiệm của Mỹ, Đài Loan, Trung Quốc, Ấn Độ và Singapore nhằm bảo vệ quyền lợi cho nhà đầu tư; (ii) Sửa đổi Nghị định 28/2021/ND_CP theo hướng tăng mức xử phạt đối với hành vi vi phạm hành chính trên TTCK, tăng tính răn đe và hiệu lực thực thi pháp luật; (iii) Ban hành Quy chế hướng dẫn Thông tư 120/2020/TT-BTC về giao dịch T+0 theo đúng kế hoạch, lộ trình, góp phần tăng thanh khoản thị trường; (iv) Nghiên cứu sửa đổi một số tiêu chí của VN30 đảm bảo chất lượng, quy mô, hiệu quả của các doanh nghiệp lớn, dẫn dắt thị trường; (v) Phát triển các sản phẩm phái sinh để phòng ngừa, hạn chế rùi ro như hợp đồng tương lai chỉ số VNX50 (VNX50 futures); (vi) quan tâm kiểm soát rủi ro hệ thống tài chính (nhất là mối quan hệ liên thông giữa ngân hàng – chứng khoán – BĐS – bảo hiểm như nêu trên).

Thứ năm, tăng cường củng cố niềm tin của nhà đầu tư, tăng cường giáo dục tài chính. Các cơ quan quản lý Nhà nước cần nhanh chóng giải quyết, xử lý nghiêm các vụ việc vi phạm quy định trên TTCK và thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Tăng cường tuyên truyền và mở rộng các chương trình giáo dục tài chính để nâng cao năng lực của nhà đầu tư, giúp họ đưa ra quyết định đầu tư, sử dụng đòn bẩy tài chính hợp lý, tránh tâm lý đám đông.

Thứ sáu, phát triển đội ngũ nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, trong đó, cần đặc biệt chú trọng đến việc thu hút các quỹ đầu tư nước ngoài và phát triển các quỹ đầu tư, nhà đầu tư tổ chức trong nước (gồm cả công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư mở, quỹ hưu trí…). Các tổ chức này có đủ nguồn lực cũng như kiến thức tài chính để có thể phân tích thị trường một cách chính xác hơn, từ đó đưa ra các quyết định dựa trên những căn cứ khoa học.

Thứ bảy, tiếp tục đẩy mạnh truyền thông về chính sách của Đảng và Nhà nước giảm thiểu kỳ vọng lạm phát, giảm tâm lý găm giữ, đầu cơ. Trong đó, cần chú ý đưa thông tin chính xác về chính sách và tình hình kinh tế vĩ mô – thị trường, tránh xu hướng “tô hồng” cũng như tin đồn xấu vì điều này có ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý, niềm tin người dân và nhà đầu tư.

Thứ tám, cần đẩy nhanh quá trình sửa đổi các Luật liên quan đến lĩnh vực bất động sản (như Luật đất đai, Luật Nhà ở, Luật kinh doanh BĐS), lĩnh vực tài chính như Luật Chứng khoán, luật các TCTD, luật DN và đấu giá, đấu thầu; đồng thời đẩy nhanh nghiên cứu và ban hành khung pháp lý cho các mô hình kinh doanh mới như Fintech, gọi vốn cộng đồng, mua chung BĐS, quỹ tín thác đầu tư BĐS…v.v. giúp đa dạng hóa kênh huy động vốn cho các doanh nghiệp cũng như hạn chế rủi ro cho nhà đầu tư…v.v.

Cuối cùng, giám sát và chỉ đạo thực hiện các nhóm giải pháp đồng bộ để phát triển lành mạnh thị trường bảo hiểm Việt Nam đã được đề ra trong Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm đến năm 2030. Trong đó, tập trung các nhiệm vụ chính về hoàn thiện hệ thống pháp luật Kinh doanh bảo hiểm, đặc biệt là các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Kinh doanh bảo hiểm số 08/2022/QH15. Đồng thời, đẩy mạnh tuyên truyền về bảo hiểm; khuyến khích ứng dụng công nghệ thông tin trong Kinh doanh bảo hiểm; tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước và hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử phạt hành chính trong lĩnh vực bảo hiểm, quy định chi tiết về hạn mức đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm...v.v.

3.2. Đối với NHNN, Bộ Tài chính và các bộ, ngành liên quan

Một là, đẩy nhanh tiến độ ban hành, tháo gỡ vướng mắc văn bản pháp lý hỗ trợ chuyển đổi số, Fintech và giải ngân gói hỗ trợ lãi suất 2% thuộc Chương trình phục hồi. Việc ban hành kịp thời những văn bản này sẽ có tác động kép, vừa thúc đẩy đa dạng hóa nguồn thu cho các tổ chức tài chính trong bối cảnh lãi suất cao, nguồn cung tín dụng không nhiều, vừa tăng tốc vòng quay của tiền, giúp tăng thanh khoản cho hệ thống, giảm áp lực của việc tăng lãi suất đến nền kinh tế.

Hai là, đẩy nhanh tiến độ cơ cấu lại các tổ chức tài chính và thị trường tài chính (theo các đề án đã ban hành); lưu ý đảm bảo thanh khoản hệ thống TCTD, an toàn của các công ty chứng khoán, hạn chế tối đa tác động lan truyền (NH - chứng khoán – BĐS). Trong đó, cần tạo điều kiện để các TCTD, đặc biệt là nhóm NHTMNN, có thể tăng vốn, đảm bảo an toàn hoạt động, theo yêu cầu của Chương trình phục hồi và đảm bảo năng lực cung ứng vốn cho nền kinh tế.

Ba là, đẩy nhanh tiến trình minh bạch hóa hoạt động của thị trường và các tổ chức tài chính, áp dụng chuẩn mực quản trị DN, tiến tới Basel III…, cũng là để giảm thiểu tình trạng tập trung sở hữu, chi phối hoạt động lẫn nhau, gây rủi ro chéo, khó lường.

Bốn là, Chính phủ sớm cho sửa các quy định về TPDN. Với việc siết lại tiêu chuẩn về đầu tư TPDN của các TCTD theo Thông tư 16/2021 và Nghị định 65/2022, thị trường đối mặt với những điều chỉnh mạnh, nhất là sau những vụ việc liên quan đến Tân Hoàng Minh, Vạn Thịnh Phát…v.v. thanh khoản thị trường co hẹp, giảm đáng kể lực cầu và cung. Vì vậy, Chính phủ chỉ đạo sửa đổi phù hợp những quy định trên với mức độ cân bằng và lộ trình phù hợp giữa kiểm soát rủi ro và hỗ trợ phát triển lành mạnh.

Năm là, vấn đề thanh khoản của thị trường TPDN và rủi ro liên thông giữa thị trường TPDN với thị trường tiền tệ, thị trường tài sản sẽ là rủi ro mang tính trọng yếu trong năm 2023-2024, theo đó, Chính phủ chỉ đạo có Phương án, giải pháp cụ thể, khả thi giải quyết rủi ro TPDN này (Nhóm nghiên cứu có đề xuất riêng).

Sáu là, có lộ trình với việc áp dụng Basel II theo phương pháp nâng cao và Basel III với hệ thống TCTD theo Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025” (Quyết định 689/QĐ-TTg) và “Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025” (Quyết định số 986/QĐ-TTg).

Việc áp dụng phương pháp nâng cao sẽ giúp đánh giá đúng mức độ rủi ro tín dụng của từng khoản vay, thay vì cả lĩnh vực như trong Thông tư 22/2019 hoặc Phương pháp tiêu chuẩn (SA) theo Thông tư 41/2016. Cuối cùng, Bộ Tài chính, UBCKNN cần nên sớm phát triển các sản phẩm chứng khoán phái sinh mới như hợp đồng tương lai trên chỉ số cố phiếu khác, hợp đồng tương lai trên cổ phiếu đơn lẻ, hợp đồng quyền chọn, v.v. nhằm đa dạng hóa sản phẩm, khắc phục hạn chế của HĐ tương lai chỉ số VN30 hiện tại, thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước./.

TS. Cấn Văn Lực

© Kinh tế và Dự báo - Bộ Kế hoạch và Đầu tư