Trang chủ/Diễn đàn khoa học/Nghiên cứu - Trao đổi
ThS. Nguyễn Thị Thúy Việt
Email: nguyenthithuyviet@iuh.edu.vn
Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh
Tóm tắt
Bài viết nghiên cứu về hành trình phát triển bền vững (PTBV) của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam, tập trung vào 3 khía cạnh chính: Tỷ suất sinh lời, Quản trị rủi ro môi trường và Hiệu suất xanh. Nghiên cứu xem xét mối quan hệ giữa Lợi nhuận ngân hàng và Các chiến lược PTBV, đánh giá hiệu quả Quản lý rủi ro môi trường trong hoạt động tín dụng; đồng thời, phân tích các sáng kiến tài chính xanh và tác động của chúng đến hiệu suất hoạt động. Kết quả nghiên cứu cung cấp cái nhìn toàn diện về sự cân bằng giữa lợi ích kinh tế và trách nhiệm môi trường, đánh giá triển vọng đạt được và thách thức, từ đó đề xuất các giải pháp giúp ngân hàng thương mại Việt Nam nâng cao năng lực quản trị bền vững, tối ưu hóa tỷ suất sinh lời trong khi vẫn tuân thủ các nguyên tắc phát triển xanh.
Từ khóa: phát triển bền vững, tỷ suất sinh lời, quản trị rủi ro môi trường, hiệu suất xanh, ngân hàng thương mại
Summary
The paper studies the sustainable development of Vietnamese commercial banks, focusing on three main aspects: Profitability, Environmental Risk Management, and Green Performance. The study examines the relationship between Bank Profitability and Sustainable Development Strategies, evaluates the effectiveness of Environmental Risk Management in credit activities, and, at the same time, analyzes green finance initiatives and their impacts on operational performance. The research results provide a comprehensive view of the balance between economic benefits and environmental responsibilities, assessing the prospects for achievement and challenges and proposing solutions to help Vietnamese commercial banks improve their sustainable management capacity and optimize profitability while complying with green development principles.
Keywords: sustainable development, profitability, environmental risk management, green performance, commercial banks
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bối cảnh PTBV trở thành xu hướng tất yếu của nền kinh tế toàn cầu. Trong hệ thống tài chính gián tiếp, NHTM giữ vị trí quan trọng với tư cách là tổ chức tài chính cốt lõi, đảm nhận chức năng quan trọng như một “hồ chứa tài chính” trong hệ thống kinh tế. Do đó, PTBV xã hội không thể tách rời khỏi sự hỗ trợ toàn diện của hệ thống NHTM (Mei và cộng sự, 2024). Việc chuyển đổi sang một hệ thống ngân hàng bền vững không chỉ là yêu cầu từ các quy định pháp lý, mà còn là động lực giúp gia tăng hiệu suất xanh nguồn tài chính (Hasan và cộng sự, 2025), giảm thiểu rủi ro môi trường và nâng cao danh tiếng của tổ chức.
Nghiên cứu tập trung phân tích hành trình chuyển đổi bền vững của các NHTM tại Việt Nam, đặc biệt là tác động của TSSL, ERM và HSX với chiến lược PTBV. Thứ nhất, nghiên cứu xem xét mối quan hệ giữa các chính sách tài chính bền vững với khả năng sinh lời của ngân hàng, từ đó đánh giá mức đạt được hiệu suất xanh tại NHTM (Arumugam và Chirute, 2018). Thứ hai, tìm hiểu áp lực bên ngoài và hành vi ERM của các NHTM (Liu và Lin, 2014), tuân thủ các tiêu chuẩn ESG (Môi trường, Xã hội và Quản trị) và thích ứng với các quy định của quốc tế về tài chính xanh (Linh, 2025). Thứ ba, nghiên cứu phân tích hiệu suất xanh của các NHTM (Hasan và cộng sự, 2025) dựa vào các kết quả đạt được khi triển khai trong hệ thống NHTM Việt Nam (Hùng và Khiêm, 2024).
Hiện nay, một số quốc gia đã và đang triển khai các tiêu chí PTBV trong hoạt động ngân hàng: các nước châu Âu như: Đức, Hà Lan, Pháp và Thụy Điển áp dụng các chính sách tài chính xanh mạnh mẽ, yêu cầu các ngân hàng tích hợp yếu tố ESG (Bruno và Lagasio, 2021). Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ (FED) đang xem xét rủi ro khí hậu trong hệ thống tài chính (Brunetti và cộng sự, 2022), một số ngân hàng lớn tại Mỹ như: JP Morgan, Bank of America cam kết cấp tín dụng cho những dự án trung hòa carbon và đầu tư vào năng lượng tái tạo (Tyson và Weiss, 2025). Chính phủ Trung Quốc thúc đẩy ngân hàng xanh thông qua tín dụng xanh và trái phiếu xanh, với Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBoC) đóng vai trò chủ đạo (Li và cộng sự, 2020). Các ngân hàng Nhật Bản như: MUFG và SMBC áp dụng các tiêu chuẩn bền vững trong tài trợ doanh nghiệp (Zhao và cộng sự, 2024), đặc biệt trong lĩnh vực năng lượng tái tạo. Tại Việt Nam, công trình nghiên cứu của (Linh, 2025) khẳng định hệ thống ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc triển khai tăng trưởng xanh thông qua việc cung cấp vốn kinh tế và khuyến khích đầu tư vào các dự án thân thiện với môi trường. Cùng các hoạt động tài trợ tăng cường nhận thức và thúc đẩy triển khai từ Ngân hàng nhà nước và các tổ chức quốc tế như: Ngân hàng Thế giới (WB), ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Cục Kinh tế Liên bang Thụy Sĩ (SECO)…, thì ngân hàng Việt Nam đã bắt đầu quan tâm tới tín dụng xanh (Trang, 2018), tăng cường hợp tác quốc tế thúc đẩy PTBV ví dụ như giữa VietinBank và Keppel triển khai các dự án như: "Làm mát là một dịch vụ" (CaaS), hệ thống lưu trữ năng lượng tái tạo và chuyển đổi chất thải thành năng lượng, nhằm giảm phát thải carbon và thúc đẩy chuyển đổi xanh.
Bằng cách tiếp cận đa chiều, bài viết cung cấp một cái nhìn tổng quan về thực tiễn áp dụng với mục tiêu PTBV trong ngành ngân hàng, các chiến lược tối ưu hóa lợi nhuận, giảm thiểu rủi ro và nâng cao hiệu quả hoạt động bền vững. Kết quả nghiên cứu sẽ đóng góp một số cơ sở lý thuyết, đề xuất giải pháp để xây dựng hệ thống NHTM có tài chính vững mạnh, bảo vệ môi trường và phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế xanh.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
PTBV ngân hàng: Là quá trình phát triển của ngân hàngnhằm đảm bảo tăng trưởng lâu dài, ổn định, đồng thời cân bằng giữa 3 yếu tố: kinh tế, xã hội và môi trường. Đây là xu hướng tất yếu trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự gia tăng nhận thức về trách nhiệm xã hội của NHTM. Năm 2019, chương trình tài chính của Liên Hợp Quốc về môi trường (UNEP FI) giới thiệu các nguyên tắc ngân hàngcó trách nhiệm (Principles for Responsible Banking - PRB) khẳng định PTBV trong ngân hàngkhông chỉ tập trung vào lợi nhuận mà còn hướng tới quản trị rủi ro môi trường - xã hội, tài trợ các dự án xanh và hỗ trợ nền kinh tế bền vững (Saxena và cộng sự, 2021).
Tỷ suất sinh lợi: Là chỉ số phản ánh khả năng sinh lời của ngân hàng, thường được đo bằng các chỉ tiêu như: ROA, ROE, NIM (Net Interest Margin) – Biên lãi ròng, PBT Margin (PBT Margin - Profit Before Tax Margin). Với mục tiêu PTBV, tỷ suất sinh lợi (Ozili, 2023) không chỉ dựa trên lợi nhuận ngắn hạn, mà còn tính đến tác động dài hạn của ngân hàng, đo lường lợi nhuận tài chính phải xem xét đến yếu tố ESG.
Quản trị rủi ro môi trường: ERM trong các NHTM là quá trình xác định, đánh giá và kiểm soát và giảm thiểu các rủi ro liên quan đến tác động môi trường trong hoạt động cấp tín dụng, đầu tư và vận hành. ERM đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển tài chính bền vững. ERM trong quản lý tín dụng giúp ngân hàngtránh rủi ro tài chính (Weber, 2012) và hỗ trợ nền kinh tế xanh.
Hiệu suất xanh: Khả năng của ngân hàng trong việc tích hợp các yếu tố môi trường vào hoạt động kinh doanh, giúp ngân hàng quản lý được các rủi ro có thể xảy ra và cung cấp các sản phẩm tài chính bền vững (Gao và Guo, 2022). Hiệu suất xanh phản ánh cam kết của ngân hàngtrong việc giảm tác động tiêu cực đến môi trường và thúc đẩy tài chính xanh.
THỰC TRẠNG PTBV TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM
Khái niệm “Chuyển đổi xanh”, “Tín dụng xanh”, “Dự án xanh”, “Công trình xanh” ngày nay được các ngân hàng tiếp thu và sử dụng khá rộng rãi ở Việt Nam. Ngày nay, nhiều ngân hàng huy động nguồn vốn thông qua “Trái phiếu xanh” được nhiều quốc gia quan tâm (Zhou và cộng sự, 2025).
Tại Việt Nam, Ngày 01/10/2021, Quyết định số 1658/QĐ-TTg được Thủ tướng Chính phủ ban hành về “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050" với mục tiêu khuyến khích các tổ chức tín dụng ưu tiên tài trợ các dự án xanh, phát triển thị trường tài chính xanh. Ngày 21/3/2022, Quyết định số 368/QĐ-TTg với “Chiến lược tài chính đến năm 2030” hướng dẫn phát triển các công cụ tài chính xanh, nâng cao vai trò của hệ thống ngân hàng trong PTBV. Quyết định 1604/QĐ-NHNN, ngày 07/8/2018 về việc phê duyệt đề án phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam đặt mục tiêu ít nhất 10% khoản vay tín dụng toàn ngành hướng đến các lĩnh vực thân thiện với môi trường đến năm 2030.
Hiện nay, nhiều NHTM đã bắt đầu nhập gia cuộc đua PTBV. Ngân hàng Thương mai Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam cung cấp gói tín dụng 10.000 tỷ đồng dành cho khách hàng cá nhân kinh doanh trong lĩnh vực xanh, gói tín dụng 3.500 tỷ đồng khuyến khích khách hàng vay mua ô tô điện, năm 2019 tham gia tài trợ cho hơn 10 dự án năng lượng tái tạo với tổng mức tín dụng cam kết là 346 triệu USD (Anh và cộng sự, 2019). Tháng 10/2023, BIDV theo “Nguyên tắc Trái phiếu Xanh của Hiệp hội Thị trường Vốn Quốc tế (ICMA)” đã phát hành 2.500 tỷ đồng trái phiếu xanh (Hoa). Agribank cung cấp tín dụng xanh lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn. Nam A Bank tục tập trung vào hoạt động kinh doanh gắn với số hóa và xanh hóa, bao gồm việc phát triển danh mục sản phẩm tín dụng xanh đa dạng như: xe ô tô điện, năng lượng tái tạo và sạch trong chiến lược kinh doanh. Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam tích hợp các tiêu chí ESG, tăng cường tài trợ cho các dự án năng lượng tái tạo, nông nghiệp sạch. Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam tích cực tài trợ vốn cho các dự án phát triển xanh, giảm phát thải, đẩy mạnh ngân hàng số nhằm giảm thiểu tác động đến môi trường…
Mối quan hệ giữa lợi nhuận ngân hàng và chiến lược PTBV
Các ngân hàng áp dụng chiến lược PTBV thường có khả năng duy trì lợi nhuận ổn định và bền vững hơn so với các ngân hàng chỉ tập trung vào lợi ích ngắn hạn. Tính đến tháng 8/2024, lợi nhuận trước thuế lũy kế của Nam A Bank đạt hơn 75% kế hoạch năm, với tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) đạt 21,46% và lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) là 1,65% (MÔ, 2003). BIDV hiện là ngân hàng có quy mô cho vay dự án xanh lớn nhất, với danh mục khoảng 3 tỷ USD vào cuối năm 2023. Các ngân hàng triển khai ESG và PTBV dễ dàng tiếp cận nguồn vốn ưu đãi từ tổ chức tài chính quốc tế, phát hành trái phiếu xanh với lãi suất thấp hơn (Phú, 2024). Ngân hàng thương mại áp dụng ESG có ROE (lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu) và ROA (lợi nhuận trên tổng tài sản) cao hơn so với các ngân hàng chưa áp dụng PTBV.
Đánh giá hiệu quả quản lý rủi ro môi trường trong hoạt động tín dụng
Quản lý rủi ro môi trường trong hoạt động tín dụng là một yếu tố quan trọng giúp ngân hàng thương mại (NHTM) giảm thiểu tổn thất tài chính, tuân thủ quy định pháp lý và góp phần PTBV. BIDV phát triển bộ tiêu chí tín dụng xanh, đánh giá tác động môi trường của các khoản vay. Vietcombank áp dụng mô hình xếp hạng rủi ro ESG dẫn đến nợ xấu từ dự án có rủi ro môi trường thấp hơn 30% so với trung bình ngành. VCB đang thử nghiệm AI phân tích tác động môi trường của danh mục cho vay doanh nghiệp
Tuy nhiên, bài toán cân bằng giữa lợi nhuận và PTBV hiện nay giữa các NHTM có nhiều cơ hội, nhưng gặp không ít thách thức như sau: (i) Thiếu nguồn lực tài chính và cơ chế hỗ trợ, dư nợ tín dụng xanh còn thấp, mới chỉ chiếm 4-5% tổng dư nợ, trong khi con số này tại các nước phát triển là 10%-20%; (ii) Thiếu khung pháp lý đồng bộ và thực thi chưa hiệu quả, Việt Nam chưa có luật riêng về ngân hàng xanh hoặc tài chính bền vững; (iii) Ý thức và nhận thức của doanh nghiệp, người dân còn hạn chế; (iii) Cơ sở hạ tầng về công nghệ và nhân lực tại Việt Nam còn hạn chế, thiếu chuyên gia về tài chính bền vững, đánh giá rủi ro môi trường - xã hội; (iv) Khí hậu ngày càng biến đổi trầm trọng và áp lực môi trường ngày càng lớn.
GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
Đẩy mạnh mục tiêu PTBV tại các NHTM để nâng cao TSSL và HXS, nhưng vẫn đảm bảo ERM. Để đạt được điều đó, tác giả đề xuất một số giải pháp như sau:
Về phía Chính phủ
Hoàn thiện khung pháp lý và chính sách hỗ trợ tài chính xanh: Đề xuất chính sách ưu đãi về thuế và lãi suất nhằm khuyến khích các khoản vay “Tín dụng xanh”. Chính phủ đưa ra tiêu chí đánh giá “tín dụng xanh” và “ngân hàng xanh”. Tăng cường áp dụng các tiêu chuẩn báo cáo ESG bắt buộc đối với ngân hàng.
Tạo cơ chế thúc đẩy ERM: Yêu cầu các ngân hàng tích hợp rủi ro môi trường vào chiến lược quản trị rủi ro tổng thể. Thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng xanh giúp giảm rủi ro khi cấp vốn cho dự án bền vững. Tăng cường giám sát và yêu cầu công khai về thông tin rủi ro môi trường trong báo cáo tài chính.
Cơ sở hạ tầng: Chính phủ cần xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ để đảm bảo cho các ngân hàngcó thể ứng dụng công nghệ số và ngân hàng số. Đầu tư vào hạ tầng xanh và tiết kiệm năng lượng, xây dựng trụ sở ngân hàng theo tiêu chuẩn công trình xanh, sử dụng năng lượng tái tạo và công nghệ tiết kiệm điện. Tăng cường sử dụng thiết bị thân thiện với môi trường, giảm tiêu thụ năng lượng và phát thải khí nhà kính.
Nâng cao hiệu suất xanh trong hoạt động ngân hàng: Thúc đẩy chuyển đổi số, giảm sử dụng giấy tờ, tăng cường dịch vụ ngân hàng không tiền mặt. Khuyến khích các ngân hàng đầu tư vào công nghệ tiết kiệm năng lượng và hạ tầng xanh. Tạo chính sách bắt buộc NHTM phải có tỷ lệ dư nợ xanh tối thiểu trong tổng danh mục cho vay.
Về phía ngân hàng
Tối ưu các danh mục đầu tư và tăng trưởng tín dụng xanh: Tăng cường cung cấp các sản phẩm TC xanh như: tín dụng xanh, trái phiếu xanh và các quỹ đầu tư theo hướng PTBV. Áp dụng cơ chế lãi suất ưu đãi cho các dự án thân thiện với môi trường (năng lượng tái tạo, giao thông xanh, nông nghiệp bền vững…). Giảm dần cấp tín dụng đối với các ngành có mức phát thải cao, đồng thời hỗ trợ khách hàng chuyển đổi sang mô hình bền vững.
Tăng cường quản trị rủi ro môi trường - xã hội: Đề nghị khách hàng vay vốn phải xây dựng phương án hạn chế ảnh hưởng môi trường trước khi cấp tín dụng. Hợp tác với các tổ chức quốc tế để xây dựng hệ thống chấm điểm tín dụng xanh nhằm đánh giá mức độ bền vững của doanh nghiệp vay vốn.
Cải thiện hiệu suất xanh trong hoạt động ngân hàng: Số hóa quy trình hoạt động để giảm tiêu thụ tài nguyên (chuyển đổi sang ngân hàng số, giảm sử dụng giấy tờ, tăng cường thanh toán không tiền mặt). Xây dựng trụ sở và chi nhánh ngân hàng đạt tiêu chuẩn xanh. Khuyến khích nhân viên ngân hàng tham gia vào các chương trình PTBV, tạo văn hóa “ngân hàng xanh”.
Minh bạch thông tin và xây dựng thương hiệu ngân hàng bền vững: Công bố báo cáo ESG hàng năm, minh bạch thông tin về các khoản vay xanh và tác động môi trường. Xây dựng hệ thống xếp hạng nội bộ để đánh giá mức độ bền vững của khách hàng và dự án trước khi cấp tín dụng.
Doanh nghiệp, cá nhân
Tích hợp tiêu chí PTBV vào chiến lược kinh doanh: Doanh nghiệp cần xây dựng kế hoạch tài chính dài hạn với mục tiêu cân bằng giữa lợi nhuận và trách nhiệm xã hội, môi trường. Định hướng đầu tư vào các ngành, dự án xanh, giảm phát thải và tăng hiệu suất sử dụng tài nguyên.
Lựa chọn các gói tín dụng phù hợp với mục tiêu PTBV: Tận dụng các khoản vay ưu đãi từ các ngân hàng có chính sách tín dụng xanh hoặc tài trợ dự án thân thiện với môi trường. Sử dụng nguồn vốn vay để đầu tư vào công nghệ sản xuất sạch, tiết kiệm năng lượng, hoặc mô hình kinh doanh tuần hoàn. Đảm bảo minh bạch về tài chính, sử dụng nguồn vốn mục đích chuyển đổi xanh.
Minh bạch thông tin và báo cáo tài chính: Cần xây dựng hệ thống báo cáo minh bạch về tài chính, tác động môi trường và xã hội. Cung cấp thông tin đáng tin cậy về hiệu quả sử dụng vốn vay. Tận dụng công nghệ số trong quản lý tài chính để tăng tính minh bạch và khả năng kiểm soát dòng vốn.
Hợp tác với ngân hàng trong các chương trình PTBV: Chủ động tìm kiếm các cơ hội hợp tác với ngân hàng để được hỗ trợ về tài chính và chuyên môn. Tham gia các chương trình đào tạo do ngân hàng tổ chức về quản lý tài chính bền vững. Hợp tác triển khai các mô hình kinh doanh có tác động tích cực đến cộng đồng và môi trường. Việc sử dụng tín dụng ngân hàng một cách hợp lý, có chiến lược sẽ giúp doanh nghiệp và cá nhân không chỉ đạt được mục tiêu tăng trưởng, mà còn đóng góp vào sự PTBV chung của nền kinh tế./.
Tài liệu tham khảo
1. Anh, T. T. X., Anh, N. T. L., Tuấn, T. A và Hằng, N. T. (2019), Tài chính xanh cho phát triển kinh tế xanh tại Việt Nam-những vấn đề cần tháo gỡ, Tạp chí Khoa học Đào tạo ngân hàng, 209.
2. Arumugam, D., and Chirute, T. (2018), Factors determining the adoption of green banking amongst commercial banks in Malaysia, Electronic Journal of Business and Management, 2(3), 50-62.
3. Brunetti, C., Caramichael, J., Crosignani, M., Dennis, B., Kotta, G., Morgan, D., Shin, C., and Zer, I. (2022), Climate-related financial stability risks for the United States: methods and applications, Finance and Economics Discussion Series, https://doi.org/10.17016/FEDS.2022.043.
4. Bruno, M., and Lagasio, V. (2021), An overview of the European policies on ESG in the banking sector, Sustainability, 13(22).
5. Gao, X., and Guo, Y. (2022), The Green Credit Policy Impact on the Financial Performance of Commercial Banks: A Quasi‐Natural Experiment from China, Mathematical Problems in Engineering, 1.
6. Hasan, S. M., Islam, K. M. A., Tawfiq, T. T., and Saha, P. (2025). Triple pillars of sustainable finance: The role of green finance, CSR, and digitalization in bank performance in Bangladesh, Banks and Bank Systems, 20(1), 38-50. https://doi.org/10.21511/bbs.20(1).2025.04.
7. Hùng, N. T., and Khiêm, B. B. (2024), Thực tiễn triển khai ESG của 4 ngân hàng thương mại lớn nhất Việt Nam và hàm ý chính sách, Tạp chí Nghiên cứu Chính sách và Phát triển, 1, 27-39.
8. Li, Z., Tang, Y., Wu, J., Zhang, J., and Lv, Q. (2020), The interest costs of green bonds: Credit ratings, corporate social responsibility, and certification, Emerging Markets Finance and Trade, 56(12), 2679-2692.
9. Linh, P. T. (2025), Risk Management Affecting Green Credit Development: A Case Study of Commercial Banks in Vietnam, Montenegrin Journal of Economics, 21(1), 31-42, https://doi.org/10.14254/1800-5845/2025.21-1.3.
10. Liu, Y., and Lin, Z. (2014), Understanding the external pressure and behavior of commercial banks’ environmental risk management: An empirical study undertaken in the Yangtze River delta of China. Ambio, 43, 395-405.
11. Mei, K., Zhang, J., and Guo, J. (2024), Mechanism of ESG System Construction Promoting Sustainable Financial Development under the" Dual Carbon" Goals, Advances in Economics, Management and Political Sciences, 119, 58-64.
12. Ozili, P. K. (2023), Sustainable Development Goals and bank profitability: International evidence, Modern Finance, 1(1), 70-92.
13. Phú, T. Q. (2024), Phát hành trái phiếu xanh để huy động nguồn vốn đầu tư cho các dự án môi trường: một số vấn đề lý thuyết và thực tiễn triển khai của các quốc gia phát triển, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Trường Đại học Hùng Vương, 36(3), 39-48.
14. Saxena, D., Dhall, N., and Malik, R. (2021), Sustainable banking: A roadmap to sustainable development, Corporate Governance and Sustainability Review, 5(3), 42-56.
16. Tyson, L. D., and Weiss, D. (2025), Climate Finance: Progress, Challenges, and Opportunities on the Path to a Sustainable Planet, California Management Review, 00081256241296902.
17. Trang, N. T. Đ. (2018), Phát triển ngân hàng xanh ở Việt Nam - trách nhiệm xã hội trong việc bảo vệ môi trường, Tạp chí Khoa học ngân hàng, số 190.
18. Văn Cập Huy (2022), Ngân hàng xanh-Bảo vệ môi trường: sáng kiến cho PTBV tại Việt Nam, truy cập từ https://tapchicongthuong.vn/ngan-hang-xanh-bao-ve-moi-truong--sang-kien-cho-phat-trien-ben-vung-tai-viet-nam-87681.htm.
Ngày nhận bài: 25/01/2025; Ngày phản biện: 05/02/2025; Ngày duyệt đăng: 10/02/2025 |
URL: https://kinhtevadubao.vn/hanh-trinh-phat-trien-ben-vung-ty-suat-sinh-loi-quan-tri-rui-ro-moi-truong-hieu-suat-xanh-tai-cac-ngan-hang-thuong-mai-viet-nam-31053.html
Print© Kinh tế và Dự báo - Bộ Kế hoạch và Đầu tư