e-ISSN: 2734-9365

Trang chủ/Sự kiện

Giá cà phê tăng trở lại do Conab hạ ước tính sản lượng cà phê Brazil

09:33 | 02/10/2015 Print
- Đóng cửa phiên ngày 29/9/2015, giá cà phê arabica giao tháng 12 trên sàn ICE Futures US tại New York tăng 1,7 cent/lb tức tăng 1,4% đạt mức 120,85 cent/lb sau khi tăng khoảng 3%.

Trong khi đó, giá cà phê robusta giao tháng 11 trên sàn ICE Futures Europe tại London tăng 28 USD/tấn, tức tăng 1,8% đạt mức 1.576 USD/tấn.

Giá cà phê tăng và ổn định do quan ngại nguồn cung cà phê sau khi Công ty Cung ứng Quốc gia Brazil (Conab) hạ ước tính sản lượng cà phê niên vụ 2015/16 của Brazil xuống mức 42,15 triệu bao loại 60kg, giảm so với mức sản lượng 45,3 triệu bao năm ngoái và mức dự báo 44,3 triệu bao ở ước tính vào tháng 6/2015 của Conab.


Biểu đồ giá cà phê arabica giao tháng 12 sàn ICE Futures US - Nguồn: Barchart

Đóng cửa phiên ngày 29/9/2015, giá cà phê arabica giao tháng 12 trên sàn ICE Futures US tại New York tăng 1,7 cent/lb tức tăng 1,4% đạt mức 120,85 cent/lb sau khi tăng khoảng 3%. Trong khi đó, giá cà phê robusta giao tháng 11 trên sàn ICE Futures Europe tại London tăng 28 USD/tấn, tức tăng 1,8% đạt mức 1.576 USD/tấn.


Biểu đồ giá cà phê robusta giao tháng 11 sàn ICE Futures Europe – Nguồn: Barchart

Công ty Cung ứng Quốc gia (Conab) thuộc Bộ Nông nghiệp Brazil là một tổ chức uy tín chuyên nghiên cứu, khảo sát về sản lượng cà phê Brazil. Các cập nhật ước tính sản lượng từ Conab được giới phân tích và nhà đầu tư trong lĩnh vực cà phê theo dõi sát do số liệu Conab tác động đáng kể đến xu hướng thị trường cà phê arabica.

Mỗi năm, Conab tiến hành 4 cuộc khảo sát các nông trường cà phê Brazil trong quá trình phát triển của một niên vụ. Khảo sát đầu tiên được thực hiện vào tháng 12, giai đoạn sau khi cà phê ra hoa. Khảo sát thứ hai được thực hiện vào tháng 5, giai đoạn trước khi thu hoạch cà phê. Khảo sát thứ ba được thực hiện vào tháng 8, giai đoạn thu hoạch rộ và khảo sát thứ tư (cuối cùng) được thực hiện vào tháng 12, giai đoạn sau thu hoạch.

Sau khi xử lý dữ liệu tại nông trường, các dự báo về sản lượng cà phê được công bố, cho biết xu hướng sản lượng cà phê tại mỗi bang để chuẩn bị các kế hoạch chiến lược cho dây chuyền sản xuất cà phê cũng như cho các nghiên cứu về sản xuất cà phê của các cơ quan Chính phủ Brazil nhằm mục tiêu xây dựng và thực hiện các chính sách đối với ngành cà phê.

Các ước tính sản lượng ban đầu được điều chỉnh trong tiến trình phát triển mùa vụ cà phê, thông tin chính xác hơn chỉ khi quá trình thu hoạch kết thúc. Bất kỳ hiện tượng thời tiết nào cũng có thể ảnh hưởng đến các ước tính. Để hoàn thiện các ước tính sản lượng cà phê, Conab đã nhận được sự hợp tác và tư vấn từ các chuyên gia Viện Địa lý và Thống kê Brazil (IBGE) cùng với các cơ quan thống kê của nhiều bang khác nhau. Chính vì vậy, các báo cáo của Conab thường nhận được sự quan tâm của giới phân tích và nhà đầu tư cà phê.

Các khảo sát của Conab được thực hiện tại các bang chính như Minas Gerais, Espírito Santo, São Paulo, Bahia, Paraná, Rondônia và Goiás , chiếm đến 98,6% sản xuất cà phê toàn Brazil.


Lịch thu hoạch cà phê Brazil năm 2015 – Nguồn: Conab

Theo báo cáo kết quả khảo sát thứ ba trong năm của Conab (khảo sát được thực hiện trong tháng 8) công bố ngày 29/9/2015, ước tính tổng diện tích cà phê (gồm arabica và robusta) trong niên vụ 2015/16 đạt 2,2467 triệu hecta, giảm 0,4% so với niên vụ trước, tức giảm 8.455,6 hecta. Trong đó, 316,6 ngàn hecta (14,1%) cà phê đang phát triển và 1.930,1 ngàn hecta (85,9%) đang cho thu hoạch. Diện tích cà phê arabica chiếm 1,7741 triệu hecta, tăng 0,1% (tức 1815,4 hecta). Bang Minas Gerais có diện tích cà phê arabica lớn nhất với 1,1813 triệu hecta, theo sau là bang São Paulo với 215.100 hecta. Đối với cà phê robusta, khảo sát cho biết diện tích cà phê robusta giảm 2,1% ước đạt 472.600 hecta. Trong đó, 432.900 hecta cà phê robusta đang cho thu hoạch và 39.700 hecta cà phê robusta đang phát triển. Bang Espírito Santo có diện tích cà phê robusta lớn nhất với 300.100 hecta, theo sau là bang Rondônia với 94.600 hecta và bang Bahia với 39.000 hecta.

Về năng suất cà phê, ước tính niên vụ 2015/16 đạt 21,84 bao/ha, giảm 6,2% so với niên vụ trước. Năng suất tại các vùng miền bắc và miền nam tăng trong khi năng suất ở các vùng khác giảm, chủ yếu do nguồn nước tưới tiêu hạn chế, đặc biệt ở vùng đông nam Brazil. Cà phê arabica ít chịu ảnh hưởng hơn cà phê robusta song năng suất cũng giảm 2,6%, chủ yếu do năng suất giảm tại São Paulo (18%), Cerrado Mineiro (25%), miền bắc Minas Gerais (14,4%) và vùng Planalto (10,3%) ở bang Bahia. Năng suất cà phê robusta giảm với tỷ lệ mạnh nhất là 15,1% tương đương mức giảm năng suất trung bình 4,47 bao/ha. Tại Espírito Santo, bang sản xuất cà phê lớn nhất Brazil, mức giảm lên đến 7,96 bao/ha. Sản xuất cà phê năm nay gặp khó khăn do hạn chế nguồn nước tưới tiêu, chỉ riêng ở Rondonia điều kiện thời tiết có phần thuận lợi hơn.

Về sản lượng, ước tính tổng sản lượng cà phê Brazil niên vụ 2015/16 đạt 42,15 triệu bao loại 60kg, giảm 7% so với mức sản lượng 45,34 triệu bao đạt được ở mùa trước và giàm 4,8% (tương đương ít nhất 2,13 triệu bao) so với mức ước tính 44,28 triệu bao công bố vào tháng 5/2015. Mức ước tính sản lượng điều chỉnh giảm chủ yếu do khối lượng cà phê thu hoạch giảm bên cạnh năng suất cà phê đang quá trình xử lý ước giảm.


Thống kê sản lượng cà phê Brazil giai đoạn 2001 – 2015 – Nguồn: Conab

Cà phê arabica chiếm 74,2 tổng sản lượng cà phê toàn Brazil, ước đạt 31,3 triệu bao trong niên vụ 2015/16, giảm 3,1% so với niên vụ trước. Sản lượng cà phê arabica giảm chủ yếu do sản lượng giảm đáng kể 1.534.100 bao tại Cerrado Mineiro và 753.900 bao tại Sao Paulo, tương đương mức giảm lần lượt 26,6% và 16,4% so với niên vụ trước. Sản lượng cà phê arabica chỉ tăng tại Zona da Mata Mineira, Paraná, Spirit Santo và Rio de Janeiro. Sản lượng cà phê arabica tại Zona da Mata vẫn đạt tốt dù điều kiện thời tiết không thuận lợi. Tại Paraná, sản xuất cà phê arabica cũng phục hồi dù điều kiện thời tiết khắc nghiệt, đặc biệt nhiệt độ thấp ảnh hưởng đến mùa vụ 2014/2015. Sản lượng cà phê arabica tại Espírito Santo và Rio de Janeiro cao hơn mùa trước dù ảnh hưởng thời tiết khắc nghiệt.

Sản lượng cà phê robusta ước đạt 10,9 triệu bao, giảm 16,7% so với niên vụ 2014/15, chủ yếu do sản lượng cà phê robusta giảm tại Espírito Santo, bang sản xuất cà phê robusta chính của Brazil, do ảnh hưởng hạn hán. Nguồn nước tưới tiêu thiếu hụt, nhiệt độ cao và những đợt nắng nóng vào tháng 12/2014, tháng 1 và tháng 2/2015 đã ảnh hưởng đến giai đoạn cà phê robusta ra hoa và kết hạt dẫn đến chất lượng hạt cà phê nhỏ và nhẹ hơn. Sản lượng cà phê robusta tại Mato Grosso và Pará cũng giảm.

Tại Rondônia và Bahia là hai bang sản xuất cà phê lớn thứ hai và thứ ba của Brazil, sản lượng cà phê robusta lại tăng. Tại Rondônia, điều kiện thời tiết thuận lợi và vùng Bahia dù hạn chế về nguồn nước vào tháng 1 và tháng 2/2015, sản lượng cà phê robusta cũng vượt mức năm ngoái với mức tăng diện tích 8,1%.


Tỷ lệ sản lượng cà phê tính theo bang – Nguồn: Conab (ước tính tháng 9/2015)

Tính riêng bang Minas Gerais, bang sản xuất cà phê arabica lớn nhất Brazil, ước tính sản lượng cà phê toàn bang đạt 21,86 triệu bao trong niên vụ 2015/16, giảm 3,5% so với niên vụ trước (22,64 triệu bao), giảm đến 21% so với niên vụ 2013/14 (27,66 triệu bao) và giảm 7,6% so với ước tính công bố vào tháng 6/2015. Tổng diện tích cà phê của bang ước đạt 967.456 hecta, giảm 2,8% so với mùa trước và năng suất cà phê trung bình ước đạt 22,59 bao/ha, giảm 0,7% so với mùa trước. Dù có mưa vào quý 4/2014 và giai đoạn tháng 1 – 6/2015 song vẫn không thể tránh khỏi thiệt hại sản lượng do ảnh hưởng hạn hán gây ra vào đầu năm 2014.

Đối với bang Espírito Santo, bang sản xuất cà phê robusta lớn nhất Brazil, ước tính sản lượng cà phê toàn bang đạt 10,38 triệu bao trong niên vụ 2015/16, trong đó gồm 2,94 triệu bao cà phê arabica (chiếm 28%) và 7,44 triệu bao cà phê robusta (chiếm 72%). Mức sản lượng này giảm 19% so với niên vụ trước (12,81 triệu bao). Sản lượng cà phê arabica của bang ước tăng 2,9% so với niên vụ trước (2,86 triệu bao) với diện tích đạt 156.601 hecta gồm 534.717 cây cà phê và năng suất đạt 18,76 bao/ha. Sản lượng cà phê robusta của bang ước giảm 25,2% so với niên vụ trước (9,95 triệu bao) với diện tích đạt 273.701 gồm 610.469 cây cà phê và năng suất trung bình 27,18 bao/ha./.

Trúc Gia – Trần Hoàng Dũng – Mỹ Tâm

© Kinh tế và Dự báo - Bộ Kế hoạch và Đầu tư