e-ISSN: 2734-9365

Trang chủ/Sự kiện

Nhập khẩu thịt lợn không ảnh hưởng tiêu thụ trong nước

08:12 | 05/05/2017 Print
- Bộ Công Thương cho biết tỷ lệ nhập khẩu chỉ bằng 0,1% sản lượng tiêu thụ, do đó không phải là nguyên nhân làm "khủng hoảng" thịt lợn vừa qua.

Không hỗ trợ trực tiếp mà thông qua chuỗi liên kết

Tại phiên họp Chính phủ diễn ra ngày 04/05, vấn đề giá thịt lợn trong thời gian gần đây nhận được nhiều sự quan tâm của báo chí. Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng cho biết, Thủ tướng Chính phủ rất quan tâm đến vấn đề thị trường nông sản; phát triển sản xuất ngành nông nghiệp theo chuỗi giá trị; sản xuất nông nghiệp công nghệ cao; kêu gọi, khích lệ doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao gắn với chuỗi sản phẩm.... Thủ tướng giao cho các Bộ NN&PTNT, Bộ Công Thương tiếp cận thị trường đàm phán với các khu vực, các nước, các doanh nghiệp, đặc biệt quan tâm đến các doanh nghiệp chế biến sản phẩm trong nước.

Như chúng ta đã biết, trong khi giá lợn hơi rất thấp (có lúc chỉ 15.000-18.000 đồng/kg) thì giá thịt lợn tại các thành phố lớn vẫn khá cao (siêu thị vẫn bán giá khoảng 100.000 đồng/kg). Thủ tướng Chính phủ yêu cầu phải làm rõ nguyên nhân và có giải pháp khẩn trương khắc phục. Trong đó, khâu giết mổ, vận chuyển, bán buôn, bán lẻ, thị trường, siêu thị thế nào mà để người chăn nuôi thiệt hại quá lớn. Rà soát ngay các quy hoạch, kế hoạch và tình hình sản xuất, chế biến, lưu thông, tiêu thụ sản phẩm thuộc phạm vi quản lý. Tinh thần là không được để xảy ra những trường hợp tương tự.

Trước vấn đề giá thịt lơn, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Công Tuấn cho hay đã công khai rất nhiều giải pháp trước mắt, vì vậy những ngày qua giá thịt lợn hơi đã tăng lên và có mức tăng bình quân so với thời điểm thấp nhất khoảng trên 5.000 đ/kg thịt lợn hơi. Ở các siêu thị so với cách đây 10 ngày thì giá bán thịt lợn cũng đã giảm, rất nhiều doanh nghiệp cung ứng cho các siêu thị lớn như Big C, Saigon Co.op… đã giảm giá bán 10-20%.

Do những cố gắng trong thời gian qua, thậm chí ngay trong dịp nghỉ lễ 30/4 vừa qua, hầu hết chúng ta đều có tiêu thụ thịt lợn tại các vùng quê. Điều này cũng góp phần làm giá thịt lợn hơi về cơ bản tương đương giá thành sản xuất.

Về những giải pháp sắp tới, Thứ trưởng Hà Công Tuấn cho biết sẽ tập trung vào 3 giải pháp:

Thứ nhất là phải giải quyết tốt quan hệ cung-cầu, đồng thời rà soát để bảo đảm tổng đàn lợn, quy mô đàn có cơ cấu hợp lý. Trước mắt, Bộ đang có các giải pháp để kiểm soát lợn nái, đồng thời nâng cao vệ sinh an toàn thực phẩm.

Thứ hai là tổ chức liên kết chuỗi. Như vậy sẽ có một số cơ chế chính sách chúng tôi sẽ đề xuất với Chính phủ thay đổi. Tuy nhiên, quan điểm chung là không có việc hỗ trợ trực tiếp mà hỗ trợ thông qua chuỗi và theo tín hiệu của thị trường.

Thứ ba là giải quyết vấn đề mở thị trường, ở đây là thị trường Trung Quốc. Những năm trước, thị trường Trung Quốc là thị trường xuất nhập khẩu theo tiểu ngạch rất lớn với thịt lợn của chúng ta. Năm nay, trong 4 tháng đầu năm, lượng này chỉ còn khoảng dưới 10% so với năm ngoái, vì vậy cũng ảnh hưởng đến tiêu thụ lợn.

Hiện nay việc tạm nhập tái xuất qua Việt Nam để sang các nước khác, trong đó có Trung Quốc, thịt gia súc, gia cầm bằng khoảng 52-55% sản lượng sản xuất.

Thứ trưởng Hà Công Tuấn cho biết thêm, Chính phủ đã chỉ đạo, không phải cấm tạm nhập tái xuất mà kiểm soát chặt chẽ tạm nhập tái xuất theo quy định để không có việc luân chuyển tạm nhập tái xuất thẩm thấu vào thị trường nội địa một cách không hợp pháp. Đồng thời, chúng ta cũng thấy nếu như tạm nhập tái xuất tăng mãi thì có thể ảnh hưởng đến thị trường tiêu thụ gia súc, gia cầm của chúng ta. Tất nhiên chúng ta sẽ thực hiện kiểm soát này theo đúng quy định của Việt Nam và theo các hiệp định thương mại, nhất là của WTO.


Hỗ trợ sẽ thông qua chuỗi và theo tín hiệu của thị trường

Nhập khẩu chỉ bằng 0,1% sản lượng tiêu thụ

Trước băn khoăn trong khi nhiều sản phẩm trong nước không tiêu thụ được như thịt lợn, thuỷ sản, rau-củ-quả, thì vẫn có một lượng lớn hàng nhập khẩu cùng chủng loại tiêu thụ trong nước, Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải cho biết, Việt Nam đã hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới, có nhiều Hiệp định thương mại tự do với các quốc gia và vùng lãnh thổ. Do đó, nếu chúng ta phát triển xuất khẩu, thì nhiều nước cũng sẽ có điều kiện xuất khẩu vào Việt Nam. Do đó, việc quan tâm là đẩy mạnh sản xuất, nâng cao tính cạnh tranh của doanh nghiệp, nâng cao tính cạnh tranh của hàng hoá để có thể đạt giá trị xuất khẩu cao hơn.

Về giá thịt lợn, Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải cũng giải thích việc liệu có phải do nhập khẩu thịt lợn và các mặt hàng liên quan làm ảnh hưởng đến tiêu thụ các sản phẩm này trong nước hay không? Theo đó, cả năm 2016, Việt Nam nhập 39.400 tấn thịt lợn và các sản phẩm liên quan đến thịt lợn từ các nước EU, Australia, Hoa Kỳ, Canada, Liên bang Nga… Như vậy, về kim ngạch chỉ đạt 44 triệu USD, bằng 0,1% sản lượng tiêu thụ thịt lợn trong nước.

Do đó, có thể khẳng định việc nhập khẩu thịt lợn và các sản phẩm liên quan đến thịt lợn không ảnh hưởng đến tiêu thụ trong nước. Nếu vào các siêu thị sẽ thấy các sản phẩm nhập khẩu có giá đắt hơn rất nhiều so với các sản phẩm thịt lợn sản xuất trong nước.

Liên quan đến tạm nhập-tái xuất, năm 2016 chỉ tạm nhập-tái xuất 20 triệu USD thịt lợn. Hiện nay Ban Chỉ đạo quốc gia chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả đang rất lưu ý và có nhiều biện pháp phòng tránh thẩm lậu các mặt hàng tạm nhập-tái xuất vào thị trường nội địa.

Các mặt hàng tạm nhập-tái xuất chủ yếu là nội tạng lợn. Do đó sau khi được Chính phủ chấp thuận, Bộ Công Thương đã có các biện pháp để có thể sẵn sàng trong trước mắt tạm dừng tạm nhập-tái xuất các sản phẩm thịt lợn và liên quan đến thịt lợn.

Về việc tại sao nhiều mặt hàng của Việt Nam như rau quả, thịt lợn không thể xuất khẩu sang thị trường các nước? Thứ trưởng Bộ Công Thương khẳng định trước hết là do chất lượng các mặt hàng này.

Ví dụ như thịt lợn, trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương mới chỉ có Hong Kong và Malaysia là chúng ta đã ký Hiệp định về thú ý, công nhận chất lược kiểm dịch. Như vậy nếu về chính ngạch sản phẩm của Việt Nam mới chỉ có thể xuất khẩu vào hai thị trường này. Nhưng cũng cần nói thêm là hai thị trường này chỉ nhập khẩu lợn sữa, với số lượng rất ít. Tương tự như vậy là các mặt hàng rau, quả.

NHNN hỗ trợ tối đa cho ngành chăn nuôi lợn

Trao đổi tại phiên họp báo, Phó Thống đốc NHNN Đào Minh Tú cho biết, ngành ngân hàng hiểu rằng hỗ trợ cho bà con nông dân nuôi lợn trong thời gian vừa qua là một vấn đề được xã hội hết sức quan tâm. Nhưng cũng rất mừng tới thời điểm hiện nay giá đã bắt đầu nhích lên, việc giải cứu đã có được các biện pháp hết sức tích cực.

Phó Thống đốc cho biết, dư nợ toàn ngành cho chăn nuôi lợn là gần 30.000 tỷ đồng, số chính sách là 29.344 tỷ đồng, cho vay ngắn hạn 12.665 tỷ, chiếm 43%, cho vay dài hạn là 16.679, chiếm 57%, với số lượng bà con hộ nông dân và doanh nghiệp kinh doanh chăn nuôi lợn là 506.058 khách hàng đang còn vay nợ ngân hàng. Trong đó, dư nợ chủ yếu là của cá nhân, hộ gia đình, khoảng 25.800 tỷ, chiếm tỉ trọng gần 90% tổng dư nợ, 10% còn lại dành cho doanh nghiệp, HTX, mô hình liên kết. Như vậy, có thể nói vấn đề nuôi lợn với khối lượng dư nợ như vậy trong tổng dư nợ nói chung hoặc tính trong cơ cấu sản phẩm nông nghiệp nói riêng cũng là con số rất lớn. Do vừa qua giá bán giảm thấp, một số bà con và doanh nghiệp không tiêu thụ được, chậm trả nợ, nợ xấu đã xuất hiện và tăng lên 352 tỷ đồng, chiếm 1,2% dư nợ cho vay ngành chăn nuôi lợn. Hộ nông dân và cá nhân chiếm tỉ trọng lớn là 311 tỷ.

Ngay từ khi có câu chuyện các doanh nghiệp và đặc biệt là hộ nông dân nuôi lợn không bảo đảm được thời hạn trả nợ thì NHNN đã cử các đoàn đi khảo sát ngay, tập trung ở một số tỉnh có số chăn nuôi lớn như Đồng Nai. Cho đến nay, số đã xử lý ngay cho những hộ gia đình và doanh nghiệp để thực hiện tái cơ cấu lại khoản nợ, tức là giãn nợ ra cho bà con, đạt là 364,7 tỷ đồng.

Quan điểm của NHNN là sau khi có chỉ đạo của Chính phủ, thì đã có văn bản chỉ đạo ngay các ngân hàng thương mại: Đối với DN, bà con nông dân, do điều kiện giá thịt lợn đang giảm, tiêu thụ khó khăn thì tạm hoãn, giãn thời hạn trả nợ, không chuyển nợ nhóm tức là giữ nguyên nhóm 1, với mức thời hạn thích hợp cho việc tiêu thụ sản phẩm. Thứ hai, về vấn đề hỗ trợ lãi suất, việc này cũng căn cứ vào khả năng tài chính của các ngân hàng thương mại. NHNN chỉ đạo các ngân hàng thương mại quan tâm và đặc biệt xem xét từng trường hợp cụ thể để có biện pháp miễn, giảm lãi vay, kể cả lãi suất nợ quá hạn để bảo đảm làm sao hỗ trợ cho bà con một cách phù hợp với tình hình khó khăn hiện nay.

Đặc biệt, tránh trường hợp hiện nay đang rất thừa, nhưng nếu không có biện pháp tiếp tục chăn nuôi thì đến một lúc lại thiếu nên đối với những doanh nghiệp, bà con vẫn tiếp tục có nhu cầu chăn nuôi lợn, NHNN có chủ trương yêu cầu các ngân hàng thương mại tiếp tục cho vay thêm, nhưng tất nhiên phải bảo đảm có lãi chứ không phải càng nuôi lại càng lỗ./.

Anh Đức

© Kinh tế và Dự báo - Bộ Kế hoạch và Đầu tư