Năm 2019, EVN lãi hơn 523 tỷ đồng từ sản xuất, kinh doanh điện

09:46 | 09/02/2021 Print
- Đó là một trong số những nội dung của kết quả kiểm tra chi phí sản xuất kinh doanh điện năm 2019 của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) mới được Bộ Công Thương công bố.

Thực hiện Quyết định số 24/2017/QĐ-TTg, ngày 30/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế điều chỉnh mức giá bán lẻ điện bình quân, Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định số 2092/QĐ-BCT ngày 07 tháng 8 năm 2020 về việc kiểm tra chi phí sản xuất kinh doanh điện năm 2019 của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN).

Đoàn kiểm tra chi phí sản xuất kinh doanh điện năm 2019 của EVN (Đoàn kiểm tra) bao gồm đại diện: Bộ Công Thương, Bộ Tài chính, Văn phòng Chính phủ, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, Hội Điện lực Việt Nam, Hội Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Trong thời gian qua, Đoàn kiểm tra đã kiểm tra thực tế tại Công ty mẹ - EVN và một số đơn vị thành viên của EVN. Căn cứ vào kết quả kiểm tra của Đoàn kiểm tra, Bộ Công Thương công bố nội dung về kết quả kiểm tra chi phí sản xuất kinh doanh điện năm 2019 của EVN như sau:

Tổng chi phí sản xuất kinh doanh điện năm 2019 là 387.828,78 tỷ đồng

Tổng chi phí khâu phân phối - bán lẻ điện là 59.250,17 tỷ đồng

Tổng chi phí sản xuất kinh doanh điện năm 2019 của EVN là 387.828,78 tỷ đồng bao gồm chi phí sản xuất kinh doanh điện của các khâu phát điện, truyền tải điện, phân phối - bán lẻ điện và phụ trợ - quản lý ngành. Giá thành sản xuất kinh doanh điện năm 2019 là 1.848,85 đ/kWh, tăng 7,03% so với năm 2018.

Các khoản thu của EVN và các đơn vị thành viên từ thanh lý, nhượng bán tài sản cố định và vật tư thu hồi, thu nhập từ hoạt động cho thuê cột điện, cho thuê nhà khu nhà ở, nhà quản lý vận hành của các dự án nguồn điện của EVN đã được giảm trừ vào chi phí sản xuất kinh doanh của EVN và các đơn vị thành viên.

Giá thành sản xuất kinh doanh điện năm 2019 bao gồm 4 khâu: phát điện, truyền tải; phân phối – bán lẻ và khâu phụ trợ - quản lý ngành.

Trong đó, đối với khâu phát điện, tổng chi phí khâu phát điện là 309.866,81 tỷ đồng, tương ứng với giá thành khâu phát điện theo điện thương phẩm là 1.477,19 đ/kWh. So với năm 2018, chi phí khâu phát điện năm 2019 tăng do một số yếu tố sau: Năm 2019, tổng lượng nước về hồ chứa thủy điện đạt khoảng 237,4 tỷ m3, thấp hơn khoảng 128 tỷ m3 so với năm 2018, do đó, sản lượng điện từ thủy điện năm 2019 thấp hơn năm 2018, sản lượng điện huy động từ các nguồn điện khác, như: nhiệt điện than, khí và đặc biệt là dầu (ngoài các nhà máy nhiệt điện chạy dầu như Thủ Đức, Cần Thơ, Ô Môn còn phải huy động nhà máy điện tua bin khí chạy dầu), năng lượng tái tạo (mặt trời) cao hơn so với 2018.

Trong khi đó, giá than trong nước năm 2019 được điều chỉnh tăng 02 lần. Bên cạnh đó, giá dầu Mazut (FO) bình quân năm 2019 tăng 0,9% so với năm 2018. Giá dầu FO tăng đã ảnh hưởng đến chi phí khi huy động các nhà máy nhiệt điện chạy dầu (Thủ Đức, Cần Thơ và Ô Môn).

Bên cạnh đó, giá khí, tỷ giá, các khoản thuế, phí và tiền phải nộp theo quy định cũng tăng so với năm 2018.

Đối với khâu truyền tải điện, tổng chi phí khâu truyền tải điện là 17.193,92 tỷ đồng, tương ứng với giá thành khâu truyền tải điện theo điện thương phẩm là 81,97 đ/kWh. Tổng chi phí khâu truyền tải điện bao gồm khoản phân bổ số dư chênh lệch tỷ giá chưa được tính vào giá thành điện tại 31/12/2015 của Tổng công ty Truyền tải điện quốc gia với giá trị phân bổ năm 2019 là 112,08 tỷ đồng.

Đối với khâu phân phối - bán lẻ điện: tổng chi phí khâu phân phối - bán lẻ điện là 59.250,17 tỷ đồng, tương ứng với giá thành khâu phân phối - bán lẻ điện theo điện thương phẩm là 282,46 đ/kWh.

Trong năm 2019, EVN cũng phải bù giá cho chi phí sản xuất kinh doanh điện tại các xã, huyện đảo: Phú Quý (Bình Thuận), Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu), Trường Sa (Khánh Hòa), Bạch Long Vĩ (Hải Phòng), Cồn Cỏ (Quảng Trị), Đảo Bé (huyện đảo Lý Sơn, Quảng Nam), Đảo Vũng Ngán (Khánh Hòa), Đảo Bích Đầm (Khánh Hòa) với số tiền là 300,75 tỷ đồng.

Đối với khâu phụ trợ - quản lý ngành: Tổng chi phí khâu phụ trợ - quản lý ngành là 1.517,88 tỷ đồng, tương ứng với giá thành khâu phụ trợ - quản lý ngành theo điện thương phẩm là 7,24 đ/kWh.

Doanh thu bán điện năm 2019 tăng 16,63% so với năm trước

Bộ Công Thương cũng cho biết, sản lượng điện thương phẩm thực hiện năm 2019 là 209,77 tỷ kWh, tăng 9,05% so với năm 2018. Doanh thu bán điện năm 2019 là 388.355,63 tỷ đồng, tăng 16,63% so với năm 2018. Giá bán điện thương phẩm bình quân thực hiện năm 2019 là 1.851,36 đ/kWh, tăng 6,95% so với năm 2018.

Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh điện năm 2019 của EVN lãi 523,37 tỷ đồng, tương ứng tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu năm 2019 là 0,35%.

Trong đó, các khoản đã hạch toán vào giá thành sản xuất kinh doanh điện năm 2019 bao gồm: (i) chênh lệch tỷ giá thực hiện theo hợp đồng mua bán điện của năm 2017 với số tiền khoảng 2.949,52 tỷ đồng; (ii) một phần khoản chênh lệch tỷ giá năm 2015 còn treo với số tiền khoảng 753,97 tỷ đồng.

Bên cạnh đó, các khoản chưa hạch toán vào giá thành sản xuất kinh doanh điện năm 2019 bao gồm: (i) khoản chênh lệch tỷ giá năm 2018 với số tiền khoảng 3.716,6 tỷ đồng (theo quy định tại các hợp đồng mua bán điện, khoản chênh lệch tỷ giá phát sinh của năm 2018 sẽ được thanh toán vào năm 2019 tuy nhiên, năm 2019 không tính toán khoản chênh lệch tỷ giá này vào phương án giá điện năm 2019 để thanh toán cho các đơn vị phát điện); (ii) khoản chênh lệch tỷ giá theo hợp đồng mua bán điện phát sinh năm 2019 với số tiền khoảng 4.415,8 tỷ đồng; (iii) khoản chênh lệch tỷ giá thực hiện theo hợp đồng mua bán điện của các đơn vị phát điện năm 2015 còn treo với số tiền khoảng 1.117,12 tỷ đồng (sau khi EVN rà soát, chuẩn xác lại số liệu).

Bộ Công Thương cũng cho biết, các khoản chênh lệch tỷ giá theo hợp đồng mua bán điện còn treo năm 2015 và 2018 sẽ được xem xét hạch toán vào năm 2020 (phù hợp với Quyết định số 34/2017/QĐ-TTg về khung giá của mức giá bán lẻ điện bình quân giai đoạn 2016-2020)./.

Lê Vân

© Kinh tế và Dự báo - Bộ Kế hoạch và Đầu tư