Thiếu sự kết nối cung - cầu

Theo Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, năm 2017, cả nước đưa được 134.000 lao động, bằng 128% chỉ tiêu đặt ra. Trong 10 tháng năm 2018, tổng số lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài tiếp tục tăng trưởng, đạt 116.675 lao động. Một số thị trường chính của lao động xuất khẩu Việt Nam là Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Malaysia... Mỗi năm, lao động xuất khẩu gửi về nước khoảng 3 tỷ USD.

Với những ưu thế về kỹ năng, kinh nghiệm, tác phong làm việc công nghiệp và trình độ ngoại ngữ, những người từng đi xuất khẩu lao động được xem là nguồn lao động có tay nghề, chất lượng cao. Tuy nhiên, có một nghịch lý xảy ra là nhiều lao động sau khi hết hợp đồng làm việc tại nước ngoài trở về nước không tìm được việc làm phù hợp, dù được đào tạo và có kỹ năng nghề cao. Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp trong nước lại đang thiếu hụt lao động có tay nghề, trình độ.

Nguyên nhân chính khiến nhiều lao động về nước không thể tìm được việc làm phù hợp là do yêu cầu mức lương quá cao. Những lĩnh vực ngành nghề mà chương trình làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài thường là những ngành nghề hiện hữu tại Việt Nam như: nhà hàng, khách sạn, điện – điện tử, chế biến thực phẩm, xây dựng, cơ khí, chế tạo. Tuy nhiên khi về nước, người lao động thường không hài lòng với mức lương của ngành nghề đó tại Việt Nam.

Bên cạnh đó, sau khi người lao động về nước cuộc sống của họ được cải thiện đáng kể, song việc tái hòa nhập vào thị trường lại khó khăn hơn rất nhiều. Cũng vì lý do này nên nhiều người khi hết hạn hợp đồng đã tự ý bỏ trốn ở lại nước ngoài để làm việc, cư trú bất hợp pháp. Đây cũng là một trong những vấn đề nhức nhối khiến các cơ quan chức năng phải đau đầu giải quyết.

Mặt khác, hiện vẫn chưa có chính sách cụ thể cho người lao động khi trở về, cũng như chính sách tận dụng nguồn vốn mà họ tích lũy được để đầu tư cho sản xuất, kinh doanh.

Một lý do khác, nhiều lao động khi trở về nước cho biết, họ có rất ít thông tin về nhu cầu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Để kiếm sống, họ thường kinh doanh nhỏ lẻ, hoặc làm tạm thời tại một doanh nghiệp trong nước với mức lương không tương xứng với trình độ.

Hiện nhiều địa phương đã phối hợp với Trung tâm dịch vụ việc làm tổ chức phiên giao dịch việc làm cho đối tượng lao động xuất khẩu về nước. Tuy nhiên, số lao động được giải quyết việc làm vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và tốc độ phát triển nhanh, nhu cầu lớn về lực lượng lao động trẻ có trình độ tay nghề của các khu công nghiệp, các công ty, tập đoàn nước ngoài.

Cần sự hỗ trợ từ phía Nhà nước

Trong bối cảnh đó, giải quyết việc làm sau hồi hương cho các lao động sau khi xuất khẩu lao động là vấn đề rất cần quan tâm để giảm thiếu số lao động trốn ở lại sau khi hết hợp đồng, cũng như khai thác nguồn lao động có kỹ năng này.

Muốn vậy, ngoài việc hoàn thiện khung pháp lý, các cơ chế chính sách hỗ trợ lao động di cư, thì Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cần xây dựng được ngân hàng dữ liệu về người xuất khẩu lao động khi trở về, cập nhật thường xuyên để các doanh nghiệp, công ty xuất khẩu lao động, trung tâm dịch vụ việc làm có thể khai thác để kết nối thị trường lao động, giúp người xuất khâu lao động có được việc làm ổn định.

Bên cạnh đó, để giải quyết mối lo "thất nghiệp khi hồi hương", các chuyên gia lao động kiến nghị các cơ quan chức năng cần chú trọng đến chính sách "hậu" xuất khẩu lao động để người lao động yên tâm về nước sau khi hết hợp đồng. Ví dụ như: có chính sách hỗ trợ và khuyến khích để người lao động hết hạn hợp đồng lao động có cơ hội quay lại tiếp tục tham gia các chương trình xuất khẩu lao động… Tăng cường hơn nữa sự phối hợp chặt chẽ giữa ngành Lao động, Thương binh và Xã hội với Ngân hàng Chính sách xã hội trong việc phân bổ vốn, đối tượng cho vay… đối với những người đi xuất khẩu lao động.

Ngoài ra, Cục Lao động ngoài nước (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội) cần tích cực kết hợp hơn nữa với các trung tâm dịch vụ việc làm, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI)... để tổ chức các phiên tuyển dụng chuyên đề cho người lao động đã từng làm việc tại nước ngoài nhằm giúp người lao động tìm đúng việc doanh nghiệp cần.

Đặc biệt, bản thân người lao động phải đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam, nghĩa là trong thời gian đi xuất khẩu lao động, người lao động cần tích lũy kỹ năng, tri thức, ngoại ngữ... để tìm việc sau khi hết hợp đồng lao động. Hơn nữa, người lao động về nước có nhiều hoàn cảnh khác nhau nên không phải người lao động nào cũng dễ dàng tìm được công việc có thu nhập cao nên phải vượt qua, không nên thụ động chờ việc "tìm đến mình"./.

Tham khảo từ nguồn:

https://baotintuc.vn/xa-hoi/thao-go-kho-khan-trong-tao-viec-lam-cho-lao-dong-xuat-khau-tro-ve-nuoc-20181019165711903.htm

http://kinhtevadubao.vn/chi-tiet/223-9702-giai-quyet-viec-lam-cho-lao-dong-xuat-khau-ve-nuoc--khong-de.html

https://vnexpress.net/tuong-thuat/thoi-su/bo-truong-dao-ngoc-dung-lao-dong-xuat-khau-moi-nam-gui-ve-3-ty-usd-3759098.html

http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/xa-hoi/2018-07-19/nhieu-co-hoi-viec-lam-cho-lao-dong-di-xuat-khau-ve-nuoc-60035.aspx