eMagazine
Nâng tầm giải pháp để kinh tế Việt Nam phục hồi và phát triển bền vững

18:44 | 07/02/2022

Nâng tầm giải pháp để kinh tế Việt Nam phục hồi và phát triển bền vững
Nâng tầm giải pháp để kinh tế Việt Nam phục hồi và phát triển bền vững

Nâng tầm giải pháp

để kinh tế Việt Nam phục hồi và phát triển bền vững

Dịch bệnh Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp trên toàn cầu, nhưng tại Việt Nam, Đảng và Nhà nước quyết tâm thúc đẩy nền kinh tế phát triển, với mục tiêu GDP năm 2022 tăng 6-6,5%, tốc độ tăng giá tiêu dùng (CPI) bình quân khoảng 4%, tổng vốn đầu tư toàn xã hội 32-24% GDP. Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho rằng, bối cảnh hiện nay đòi hỏi phải có những giải pháp mới, mạnh mẽ hơn, hiệu quả hơn để nền kinh tế đạt các mục tiêu năm 2022, cũng như tiếp tục thực hiện khát vọng phát triển Đất nước phồn thịnh trong trung và dài hạn. Dưới đây là những chia sẻ của Bộ trưởng với Tạp chí Kinh tế và Dự báo nhân dịp Xuân Nhâm Dần 2022.

Nâng tầm giải pháp để kinh tế Việt Nam phục hồi và phát triển bền vững

PV: Thưa Bộ trưởng, trải qua năm 2021 đầy gian nan thách thức, nền kinh tế nước ta về đích với 7/12 chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu đạt và vượt kế hoạch năm. Nhiều ý kiến đánh giá rất cao các giải pháp chính sách được Chính phủ ban hành trong năm 2021, nhằm tăng cường công tác phòng, chống dịch, hỗ trợ doanh nghiệp, người dân vượt khó. Là cơ quan tham mưu tổng hợp của Chính phủ, xin Bộ trưởng chia sẻ đôi điều về giải pháp chính sách giúp nền kinh tế đạt được những kết quả tích cực trong năm vừa qua?

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng: Là cơ quan tham mưu tổng hợp về phát triển kinh tế- xã hội của Chính phủ, trong năm 2021, bám sát quan điểm của Đảng, Quốc hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tham mưu xây dựng, trình ban hành nhiều văn kiện, tài liệu quan trọng, có ý nghĩa chiến lược, là khung khổ, định hướng để phát triển đất nước, đó là: Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030; Phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025, các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tài chính, ngân sách và đầu tư công 5 năm 2021-2025; Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025; Chiến lược hợp tác đầu tư nước ngoài giai đoạn 2021-2030; Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030.

Trên cơ sở đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tham mưu xây dựng, trình Chính phủ ban hành các Chương trình hành động, cụ thể hóa quan điểm, đường lối, định hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp của Đảng, Quốc hội, đó là các Nghị quyết số 50/NQ-CP, ngày 20/5/2021; Nghị quyết số 99/NQ-CP, ngày 30/8/2021. Cùng với đó là cụ thể hóa các mục tiêu phát triển trong quá trình triển khai xây dựng các quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch ngành, lĩnh vực và quy hoạch tỉnh; tạo nền tảng và cơ sở để các ngành, các cấp cụ thể hóa các chiến lược, kế hoạch trung hạn và ngắn hạn của ngành và cấp mình.

Đây là căn cứ quan trọng để triển khai các nhóm nhiệm vụ, giải pháp hỗ trợ, giúp nền kinh tế vượt qua khó khăn, thách thức của dịch bệnh, đạt được một số kết quả tích cực trong thời gian qua.

Cụ thể, Chính phủ đã có nhiều giải pháp, chính sách hỗ trợ kịp thời, hạn chế tối đa tác động của dịch bệnh đến người dân, doanh nghiệp, qua đó, góp phần củng cố niềm tin của doanh nghiệp, nhà đầu tư đối với môi trường đầu tư kinh doanh của nước ta.

Nhiều cơ chế, chính sách, giải pháp ban hành kịp thời, trong đó có các chính sách hỗ trợ người dân, người lao động, như: chính sách miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí theo Nghị quyết 406/NQ-UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Nghị định số 52/2021/NĐ-CP của Chính phủ...; chính sách chung về thúc đẩy tăng trưởng, hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh theo Nghị quyết số 105/NQ-CP, Nghị quyết số 63/NQ-CP, Nghị quyết số 116/NQ-CP của Chính phủ… Các chính sách trên đã góp phần hỗ trợ, giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc của người dân, người lao động, doanh nghiệp, nhất là các chính sách gia hạn, miễn, giảm một số loại thuế, phí, lệ phí, tiền sử dụng đất; cơ cấu lại nợ, miễn, giảm lãi vay, phí dịch vụ, thanh toán; giảm tiền điện, nước, viễn thông...

Bám sát diễn biến dịch bệnh và tốc độ tiêm vaccine, từ giữa tháng 10/2021, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định chuyển hướng chiến lược kịp thời để ứng phó với dịch Covid-19 với việc ban hành Nghị quyết 128/NQ-CP, nhằm “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19”, vừa phòng, chống dịch, vừa khôi phục, phát triển kinh tế - xã hội. Đây là quyết sách và là nền tảng quan trọng để phục hồi kinh tế trong quý IV/2021 và năm 2022. Chính sách có tác động ngay tới sản xuất, kinh doanh, được dư luận xã hội đánh giá là chủ trương, quyết sách đúng đắn, sáng tạo và kịp thời của Chính phủ, đáp ứng nhu cầu, mong muốn của người dân, doanh nghiệp.

Các chính sách được Chính phủ ban hành kịp thời, hợp lòng dân, đã giúp tăng trưởng GDP cả năm 2021 đạt 2,58%. Kim ngạch xuất - nhập khẩu lập kỷ lục với 668,5 tỷ USD, trong đó xuất siêu 4 tỷ USD, cao nhất từ trước đến nay, đưa Việt Nam trở thành 1 trong 20 nước có quy mô thương mại lớn nhất thế giới. Đặc biệt, vốn đăng ký đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 31,15 tỷ USD, tăng 9,2% so với cùng kỳ năm 2020. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân tăng 1,84% so với bình quân năm 2020 - mức tăng thấp nhất 5 năm trở lại đây... Kết quả của năm 2021 cho phép chúng ta tự tin đã chọn đúng giải pháp đưa nền kinh tế vận hành trơn tru trở lại, thiết lập nên trạng thái bình thường mới và tiếp tục hướng đến các mục tiêu phát triển của năm 2022 cũng như các năm tới đây.

.

Nâng tầm giải pháp để kinh tế Việt Nam phục hồi và phát triển bền vững

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng tiếp Đại sứ Liên bang Nga tại Việt Nam (tháng 8 năm 2021)

NÂNG TẦM GIẢI PHÁP ĐỂ KINH TẾ VIỆT NAM TRỞ LẠI QUỸ ĐẠO TĂNG TRƯỞNG

PV: Tại kỳ họp đầu năm 2022 của Quốc hội, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng đã trình bày Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ để hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Xin Bộ trưởng chia sẻ tầm quan trọng cũng như dự báo hiệu quả của chính sách này?

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng: Trong năm 2021, do tác động của dịch bệnh, tăng trưởng kinh tế nước ta liên tiếp giảm ở mức thấp, ảnh hưởng đến việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng bình quân 5 năm, 2021-2025. Tình hình sản xuất kinh doanh, du lịch, dịch vụ gặp nhiều khó khăn; nền kinh tế đối mặt với nhiều thách thức về ổn định vĩ mô, lạm phát; chi phí đầu vào gia tăng; chuỗi cung ứng, lưu thông hàng hóa bị đứt gãy; nảy sinh các vấn đề về lao động, việc làm, an sinh, an ninh và trật tự an toàn xã hội... Nền kinh tế nước ta năm 2021 về đích với 7/12 chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu đạt và vượt kế hoạch, như vậy, vẫn còn 5/12 chỉ tiêu kinh tế - xã hội chưa đạt kế hoạch. Đây là điều mà năm 2022 phải hoàn thành ở mức cao hơn dự kiến ban đầu để nền kinh tế trở lại quỹ đạo tăng trưởng, theo đúng mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra.

Trước những khó khăn, tác động sâu rộng của dịch bệnh, cần phải có giải pháp, chính sách tổng thể để phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Các giải pháp, chính sách phải nhanh chóng hỗ trợ phục hồi nền kinh tế, đáp ứng yêu cầu thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu hằng năm, 5 năm, 10 năm đã đề ra, không để lỡ nhịp với đà phục hồi kinh tế của khu vực và thế giới. Do vậy, việc ban hành và tổ chức thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội tại thời điểm hiện nay là hết sức phù hợp và cấp thiết.

Với vai trò là cơ quan tham mưu tổng hợp về kinh tế - xã hội, bám sát quan điểm của Đảng, Quốc hội, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã nghiên cứu xây dựng Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế- xã hội, cũng như chính sách tài khóa, tiền tệ để hỗ trợ Chương trình. Chương trình nhằm mục tiêu khôi phục nhanh chuỗi sản xuất, cung ứng, lao động, thúc đẩy các động lực tăng trưởng, phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng bình quân 6,5-7%/năm giai đoạn 2021-2025.

Nhìn ra thế giới có thể thấy, để phục hồi và duy trì tăng trưởng trong bối cảnh dịch bệnh, một số quốc gia phát triển, có tiềm lực, đã thực hiện các gói hỗ trợ lớn, chủ yếu là hỗ trợ tài khóa thông qua tài trợ nền kinh tế, người dân bằng tiền mặt để kích thích tổng cầu, từ đó kích thích phía cung. Hầu hết các nền kinh tế còn lại ban hành chính sách hỗ trợ phù hợp với khả năng nguồn lực. Tại Việt Nam, trong điều kiện của năm 2022, giải pháp mà chúng ta chọn là thực hiện các chính sách tài khóa, tiền tệ phù hợp với khả năng huy động nguồn lực và khả năng hấp thụ của nền kinh tế, bám sát mục tiêu, định hướng đề ra, tác động cả phía cung và phía cầu, đáp ứng yêu cầu cả trong ngắn và dài hạn.

Chính sách tài khóa năm 2022 nhằm mục tiêu hỗ trợ, giải quyết ngay khó khăn trước mắt của người dân, doanh nghiệp thông qua các chính sách miễn, giảm thuế, phí, lệ phí khoảng 64 nghìn tỷ đồng; gia hạn thời hạn nộp thuế, tiền thuê đất có tổng quy mô khoảng 135 nghìn tỷ đồng; hỗ trợ tiền thuê nhà trọ cho người lao động. Đồng thời, khẩn trương chuẩn bị, hoàn thiện thủ tục đầu tư và các quy định pháp lý về cơ chế đặc thù ngay từ đầu năm 2022 để sớm thực hiện, đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn của các dự án thuộc Chương trình.

Điều hành linh hoạt, đồng bộ chính sách tiền tệ để giảm lãi suất cho vay từ 0,5-1,0%/năm trong năm 2022-2023, nhất là trong một số ngành, lĩnh vực ưu tiên; tiếp tục cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ, miễn giảm lãi đối với khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19; kết hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa để bảo đảm nguồn lực thực hiện Chương trình, đồng thời giữ vững ổn định vĩ mô, các cân đối lớn của nền kinh tế.

Việc thực hiện nhanh, hiệu quả Chương trình ngay từ đầu năm 2022 sẽ tạo động lực chính sách thiết thực và tích cực để hỗ trợ doanh nghiệp, người dân sớm vượt qua khó khăn, phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Khi thực hiện hiệu quả, Chương trình sẽ góp phần hỗ trợ, thúc đẩy phục hồi, phát triển sản xuất kinh doanh, nhất là các ngành, lĩnh vực quan trọng bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh. Các giải pháp tập trung nâng cao năng lực nội tại cả phía cung và cầu, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là những ngành, lĩnh vực, địa bàn động lực của nền kinh tế cả trong ngắn hạn và trung, dài hạn. Qua đó, phấn đấu thực hiện mục tiêu tăng trưởng 5 năm 2021-2025 (6,5-7%/năm), không để lỡ nhịp với đà phục hồi kinh tế của khu vực và thế giới, nhất là những đối tác lớn của nước ta.

.

Nâng tầm giải pháp để kinh tế Việt Nam phục hồi và phát triển bền vững

Các giải pháp, chính sách phải nhanh chóng hỗ trợ phục hồi nền kinh tế - Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng

THU HÚT VỐN FDI THÀNH CÔNG VỀ CẢ LƯỢNG VÀ CHẤT

PV: Đại dịch Covid-19 những tưởng làm đứt gãy dòng chảy vốn FDI vào Việt Nam, nhưng thực tế cho thấy, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài năm 2021 vẫn đạt trên 31,5 tỷ USD, tăng 9,2% so với năm trước đó. Kết quả này đến từ những nguyên nhân nào, thưa Bộ trưởng?

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng: Theo tôi, nguyên nhân quan trọng nhất là các nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục đặt niềm tin vào sự ổn định, bền vững và tiềm năng phát triển dài hạn của nền kinh tế Việt Nam. Họ nhìn thấy cơ hội trong việc phát triển các dự án sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam. Trước khi đại dịch Covid-19 xuất hiện, nền kinh tế nước ta đã có nhiều năm liên tục đạt tốc độ tăng trưởng cao, tạo nên sức hấp dẫn lớn với các nhà đầu tư nước ngoài. Trong 2 năm vừa qua, đại dịch khiến tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam giảm sút (năm 2020 là 2,91%, năm 2021 là 2,58%) và có những lúc chúng ta đã lo ngại về việc dòng chảy vốn FDI sẽ suy giảm, nhưng bằng các giải pháp tổng thể, vừa chống dịch, vừa khôi phục nền kinh tế, đồng thời lắng nghe và tạo điều kiện tốt nhất cho các nhà đầu tư, chúng ta đã có thêm một năm thu hút FDI thành công.

Điều đáng mừng là thu hút vốn FDI thành công không chỉ về lượng, mà năm 2021 có sự thay đổi về chất khi số dự án quy mô nhỏ và dự án chỉ đến để “giữ chỗ” giảm mạnh trong năm (dự án dưới 5 triệu USD giảm 33,9%, các dự án có quy mô nhỏ dưới 1 triệu USD giảm 33,2% so với năm 2020 - PV), nhường chỗ cho các dự án lớn, đúng với chủ trương, mục tiêu thu hút có chọn lọc, lấy chất lượng, hiệu quả, công nghệ và bảo vệ môi trường là tiêu chí đánh giá chủ yếu. Kim ngạch xuất - nhập khẩu ở khu vực FDI năm 2021 tiếp tục duy trì mức tăng trưởng ấn tượng, với kim ngạch xuất khẩu đạt 246,7 tỷ USD, tăng 20,7%; kim ngạch nhập khẩu đạt 218 tỷ USD, tăng 29,2%. Theo đó, xuất siêu của khu vực này là 28,5 tỷ USD.

Trong năm 2021, nước ta có thêm nhiều dự án tỷ USD đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư, gồm Nhà máy điện LNG Long An I và II (Singapore) có tổng vốn đăng ký trên 3,1 tỷ USD; Nhà máy điện Ô Môn II (Nhật Bản) có tổng vốn đăng ký 1,31 tỷ USD; Dự án tăng vốn của LG Display Hải Phòng với tổng vốn tăng thêm là 2,15 tỷ USD… Mặc dù các đường bay quốc tế bị gián đoạn trong năm 2021, nhưng một số tập đoàn nước ngoài vẫn nỗ lực đến Việt Nam, xúc tiến kế hoạch đầu tư trong thời gian tới. Chẳng hạn, Tập đoàn Lego (Đan Mạch) dự kiến sẽ xây dựng Nhà máy tại Bình Dương trong năm 2022, với quy mô trên 1 tỷ USD.

PV: Xin Bộ trưởng chia sẻ dự cảm của mình về dòng chảy vốn FDI vào Việt Nam trong thời gian tới?

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng: Trên nền tảng thành công của năm 2021, tôi tin rằng, năm 2022 và các năm tiếp theo, dòng vốn FDI sẽ tiếp tục chọn Việt Nam, không chỉ vì những lợi thế vốn có của nền kinh tế, mà còn bởi các cơ chế, chính sách mới của Việt Nam trong thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đã bắt kịp xu hướng phát triển cũng như có tính cạnh tranh quốc tế. Tại Quyết định số 29/2021/QĐ-TTg, ngày 06/10/2021, Thủ tướng đã ban hành Quy định về ưu đãi đầu tư đặc biệt, theo đó, các dự án công nghệ cao, dự án có quy mô lớn… sẽ được hưởng các ưu đãi tương ứng về thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp; về thời gian miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp; tiền thuê đất, thuê mặt nước…

Cùng với đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1831/QĐ-TTg, ngày 01/11/2021 về Danh mục quốc gia các dự án kêu gọi đầu tư nước ngoài giai đoạn 2021-2025. Theo đó, Danh mục quốc gia gồm 157 dự án thuộc 9 lĩnh vực: hạ tầng giao thông; hạ tầng khu công nghiệp, khu kinh tế; hạ tầng năng lượng; hạ tầng công nghệ thông tin; hệ thống xử lý rác, nước thải; hạ tầng giáo dục và y tế; hạ tầng văn hóa, thể thao, du lịch; ngành nông, lâm, thủy sản; lĩnh vực sản xuất và dịch vụ. Thủ tướng Chính phủ cũng giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, hướng dẫn, kiểm tra việc thi hành Quyết định 1831/QĐ-TTg, đồng thời giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chủ trì phối hợp các bộ, ngành, địa phương xây dựng chi tiết nội dung thông tin dự án, phù hợp với tình hình thực tế trong từng thời kỳ.

Nâng tầm giải pháp để kinh tế Việt Nam phục hồi và phát triển bền vững

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng tiếp và trao tặng Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp ngành Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam” cho Điều phối viên thường trú của Liên hợp quốc tại Việt Nam (tháng 8/2021)

QUY TỤ NHÂN TÀI THỰC HIỆN ĐỔI MỚI SÁNG TẠO, TẠO ĐỘNG LỰC MỚI CHO TƯƠNG LAI VIỆT NAM

PV: Để góp sức hiện thực hóa các mục tiêu phát triển Đất nước, trong năm qua, cá nhân Bộ trưởng cũng như một số đơn vị thuộc Bộ tiếp tục dành nhiều tâm sức, nỗ lực kết nối, phát triển Mạng lưới Đổi mới sáng tạo Việt Nam trên toàn cầu. Phải chăng, Bộ trưởng đặt niềm tin vào thế hệ trẻ, trao cho họ khát vọng, tình yêu Đất nước và thúc đẩy tinh thần đổi mới sáng tạo để tạo động lực mới cho tương lai Việt Nam?

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng: Tôi có niềm tin rất lớn vào thế hệ trẻ, nhất là đội ngũ tri thức, được đào tạo bài bản về kiến thức và tư duy phát triển kinh tế. Việc kết nối, phát triển Mạng lưới Đổi mới sáng tạo Việt Nam tại nhiều quốc gia trên thế giới nhằm tạo động lực gắn kết sức mạnh tri thức, gắn kết tình yêu Đất nước của thế hệ trẻ, tạo nguồn lực mới để nước ta có thể đuổi kịp, tiến cùng và vượt lên ở nhiều lĩnh vực trong tương lai. Tôi tin, đội ngũ tri thức trẻ trong và ngoài nước chính là những người kiến tạo và hiện thực hóa các khát vọng phát triển Việt Nam.

Về cơ chế, chính sách, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra quan điểm chỉ đạo: “Có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển nhanh và bền vững”. Đây cũng là những quan điểm mà Bộ Kế hoạch và Đầu tư, với vai trò là cơ quan tham mưu về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cho đất nước, đã chủ động kiến nghị với Chính phủ đưa vào nội dung Nghị quyết Đại hội.

Thực tế, để tạo con đường cho đổi mới sáng tạo Việt Nam, trong những năm qua, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã hoàn thành nhiều nhiệm vụ lớn. Thứ nhất, Bộ đã hoàn thiện và trình Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia về Cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Thứ hai, Bộ đã xây dựng Đề án và trình Thủ tướng Chính phủ thành lập Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia tháng 10/2019 và chính thức đưa vào hoạt động từ đầu năm 2021. Thứ ba, phối hợp với các Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Ngoại giao để thành lập Mạng lưới Đổi mới sáng tạo Việt Nam, nhằm quy tụ trí thức, chuyên gia người Việt trên toàn cầu. Tính đến nay, Mạng lưới đổi mới sáng tạo Việt Nam đã quy tụ được hơn 1.000 thành viên, từ 20 quốc gia, vùng lãnh thổ, được tổ chức thành các mạng lưới thành phần tại Đức, Nhật Bản, Đài Loan, Australia, Hàn Quốc... Mạng lưới quy tụ những trí thức tiêu biểu, những chuyên gia người Việt có nhiều năm làm việc tại các doanh nghiệp, tập đoàn công nghệ lớn các nước, những người sẵn sàng chia sẻ tri thức, kinh nghiệm, đóng góp cho công cuộc đổi mới sáng tạo tại Việt Nam.

Bên cạnh đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp tục mở rộng các hợp tác quốc tế, tìm kiếm nguồn lực mới cho công cuộc đổi mới sáng tạo Việt Nam. Thông qua Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia, năm 2021, Bộ đã hợp tác với Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) thực hiện dự án “Nguồn nhân lực cho đổi mới sáng tạo - Hệ sinh thái khởi nghiệp”. Dự án có giá trị 2 triệu USD, do USAID tài trợ, với mục tiêu hỗ trợ Chính phủ Việt Nam trong Chiến lược quốc gia về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhằm tiếp tục thúc đẩy đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế. Cùng với đó, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) và Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang thực hiện Dự án “Hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp có tính đổi mới sáng tạo”. Dự án có quy mô 1 triệu USD, được kỳ vọng hỗ trợ nguồn vốn cho hoạt động đầu tư mạo hiểm ở khu vực tư nhân Việt Nam…

Với những nỗ lực trên, tôi mong rằng, đổi mới sáng tạo đang và sẽ lan tỏa mạnh mẽ đến mọi người dân Việt Nam, từ đó, tạo nên những kết nối trong cộng đồng Việt Nam cũng như những kết nối lớn hơn với đối tác, bạn bè quốc tế. Những kết nối này hết sức cần thiết trong giai đoạn chúng ta đang tập trung thúc đẩy năng lực sáng tạo, đưa khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo trở thành động lực phát triển kinh tế đất nước.

Trong quá trình tiếp xúc với các thành viên của Mạng lưới đổi mới sáng tạo trên toàn cầu, tôi rất vui mừng khi một số doanh nhân, tri thức Việt Kiều thay vì chọn các quốc gia phát triển để đặt “đại bản doanh”, đã chọn Việt Nam làm nơi để hiện thực hóa các khát vọng lớn. Genetica - Công ty giải mã gen ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) là một ví dụ. Thay vì chọn Singapore, Genetica đã trở về Việt Nam để xây dựng Trung tâm giải mã gen có quy mô lớn nhất Đông Nam Á. Sự góp sức của những nguồn lực như vậy sẽ không chỉ giúp Việt Nam có những bước tiến mới trong nghiên cứu khoa học, mà còn giúp nước ta đi nhanh hơn trong mục tiêu xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp hàng đầu khu vực.

Nâng tầm giải pháp để kinh tế Việt Nam phục hồi và phát triển bền vững

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng tham dự Lễ Công bố thành lập Mạng lưới Đổi mới sáng tạo Việt Nam tại châu Âu

Nâng tầm giải pháp để kinh tế Việt Nam phục hồi và phát triển bền vững

PV: Một chia sẻ mới đây của Trường đại học công lập hàng đầu tại Hoa Kỳ (Trường Arizona) về đổi mới sáng tạo cho thấy, các phát kiến về công nghệ không phải là công cụ tạo nên sự cân bằng tự động, thậm chí còn tạo khoảng cách lớn hơn giữa các giai tầng trong xã hội. Tại Việt Nam, chúng ta chọn giải pháp gì để đạt được sự cân bằng trong phát triển kinh tế - xã hội, nhằm hướng tới sự phát triển bền vững, thưa Bộ trưởng?

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng: Không riêng tại Hoa Kỳ, nhiều quốc gia trên thế giới cũng bắt đầu suy nghĩ lại về các lựa chọn giải pháp để đạt được sự thịnh vượng kinh tế một cách bền vững, trước mối quan tâm ngày càng tăng về việc duy trì và bảo vệ nguồn vốn tự nhiên cũng như mong muốn thúc đẩy phát triển xã hội bao trùm, gắn kết các giá trị con người và giá trị văn hóa. Thực tế cho thấy, từ năm 1990 đến nay, công cuộc giảm nghèo trên toàn cầu đã thực sự đạt được những bước tiến quan trọng, với hơn 1,2 tỷ người đã thoát khỏi cảnh nghèo cùng cực. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là sự phát triển của khoa học công nghệ, vẫn chưa dẫn đến sự tiến bộ trên diện rộng. Mô hình khai thác tài nguyên thiên nhiên ở quy mô không bền vững không những gây ra những tác động tiêu cực lớn đến môi trường, mất đa dạng sinh học, ô nhiễm không khí, biến đổi khí hậu toàn cầu, mà còn không tính đến đầy đủ các khía cạnh về công bằng xã hội, bình đẳng giới, hòa nhập và cơ hội kinh tế cho các thế hệ tương lai.

Tại Việt Nam, chúng ta chọn tăng trưởng xanh như một hướng tiếp cận mới trong tăng trưởng kinh tế, nhằm đạt được thịnh vượng toàn diện. Cách tiếp cận này không chỉ mang lại lợi ích kinh tế, mà còn hướng tới hài hòa phát triển kinh tế - xã hội với phục hồi và bảo tồn hệ sinh thái tự nhiên. Thông qua việc thúc đẩy tăng trưởng xanh, các giá trị văn hóa cốt lõi được truyền tải, chia sẻ và thấm nhuần trong chính lối sống của con người.

Năm 2021, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1658/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 nhằm đưa Việt Nam đi tắt đón đầu, bắt kịp, tiến cùng, vượt lên, hướng tới khát vọng thịnh vượng về kinh tế, bền vững về môi trường và công bằng về xã hội. Chiến lược là minh chứng rõ nét nhất về việc Việt Nam đã quyết tâm lựa chọn tái cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng tăng trưởng xanh, nhằm đạt được các mốc quan trọng vào năm 2030, năm 2045 và những năm tiếp theo, tạo ra cơ hội lớn để Việt Nam có thể tiên phong trong khu vực về phục hồi xanh, tăng trưởng xanh, bắt kịp xu thế phát triển của thế giới.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025. Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh sẽ cụ thể hóa các hoạt động, nhiệm vụ góp phần cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng xanh và bền vững trong quá trình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025; đồng thời, định hướng và huy động nguồn lực thực hiện các dự án của kế hoạch đầu tư công trung hạn tích hợp các chương trình và dự án đầu tư xanh.

Tất nhiên, chúng ta sẽ triển khai và hiện thực hóa các mục tiêu chiến lược từng bước một, nhưng tôi có niềm tin chắc chắn rằng, với tầm nhìn dài hạn và bao trùm trong các quyết sách chỉ đạo, điều hành đất nước, những thách thức của đại dịch sẽ sớm lùi lại phía sau và cơ hội cho nền kinh tế Việt Nam vươn lên, đạt các mục tiêu 5 năm, 10 năm tới là rất lớn.

Xin trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!

Tường Vi

Tạp chí Kinh tế và Dự báo 18:44 | 07/02/2022