Nông nghiệp Việt Nam năm 2018: một năm nhìn lại
Những kết quả nổi bật
Tăng trưởng ngành đạt mức cao nhất trong từ năm 2012 trở lại đây. Từ năm 2016-2017, tốc độ tăng GDP ngành nông, lâm, thủy sản đạt bình quân 2,13%/năm, thấp hơn năm 2015 (đạt 2,41%) và thấp hơn mục tiêu đề ra. Tuy nhiên, năm 2018, khu vực này đạt mức tăng trưởng 3,76%, cao nhất trong giai đoạn 2012-2018.
Kết quả trên khẳng định, xu thế chuyển đổi cơ cấu ngành đã phát huy hiệu quả. Đáng chú ý là, chất lượng tăng trưởng đã được cải thiện, khi giá trị gia tăng chủ yếu nhờ đổi mới công nghệ, tăng cường chuyển đổi giống chất lượng cao (trước kia tăng trưởng chủ yếu dựa vào việc gia tăng diện tích canh tác và sản lượng). Như vậy, nếu không có yếu tố đột biến, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân toàn ngành giai đoạn 2016-2020 sẽ đạt mục tiêu đề ra (từ 2,5%-3,0%/năm).
2018 là một năm thành công của ngành nông nghiệp Việt Nam
Tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp đi đúng hướng, phát huy hiệu quả. Cơ cấu sản xuất tiếp tục được điều chỉnh phù hợp, hiệu quả hơn và gắn với nhu cầu thị trường, cũng như thích ứng với biến đổi khí hậu; khoa học công nghệ kết hợp với ứng dụng các quy trình sản xuất tiên tiến, thân thiện với môi trường; tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị; tăng cường kiểm soát và phòng chống dịch bệnh, thiên tai được rà soát, triển khai trong từng địa phương, đơn vị. Vì vậy, sản lượng nhiều loại nông sản chủ lực giá trị gia tăng cao tăng mạnh, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và gia tăng xuất khẩu. Kết quả ấn tượng dễ nhận thấy là kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản liên tục tăng và đạt mức kỷ lục trong năm 2018 là 40,02 tỷ USD, tăng 9,6% so với năm 2017; thặng dư thương mại của nhóm ngành hàng nông, lâm, thủy sản là 8,72 tỷ USD, đứng thứ 2 Đông Nam Á về xuất khẩu nông nghiệp, mở rộng thị trường tiêu thụ.
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới được kết quả tích cực, có khả năng hoàn thành mục tiêu 5 năm ngay trong năm 2019. Các đề án về xử lý môi trường nông thôn, phát triển sản phẩm đặc sản địa phương (OCOP), xây dựng nông thôn mới cấp thôn bản tại các xã khó khăn... được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tạo tiền đề để xử lý các vấn đề bức xúc tại khu vực nông thôn, đồng thời nâng cao thu nhập bền vững cho cư dân nông thôn.
Đến hết ngày 31/12/2018, cả nước đã có 3.838 xã (43,02%) số xã đạt chuẩn nông thôn mới, tăng 769 xã (8,62%) so với cuối năm 2017; 03 địa phương có 100% số xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới (Đồng Nai 133/133 xã; Nam Định 193/193 xã; Đà Nẵng: 11/11 xã); Bình quân cả nước đạt 14,57 tiêu chí/xã (tăng 0,4 tiêu chí so với cuối năm 2017). Đặc biệt, chỉ còn 10 xã dưới 5 tiêu chí, giảm 103 xã so với cuối năm 2017 (Hà Giang: 2 xã; Bắc Kạn: 1 xã; Điện Biên: 4 xã; Kon Tum: 3 xã). Có 61 đơn vị cấp huyện thuộc 31 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận hoàn thành nhiệm vụ/đạt chuẩn nông thôn mới, tăng 18 huyện so với cuối năm 2017. Đáng chú ý là, tình trạng nợ đọng xây dựng cơ bản trong Chương trình nông thôn mới cơ bản được xử lý (chỉ còn 4,3% so với số nợ ghi nhận tại thời điểm tháng 01/2016). Dự kiến năm 2019 sẽ có khoảng 50% số xã và 70 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn; không còn xã dưới 5 tiêu chí, cơ bản đạt mục tiêu 5 năm 2016-2020 của Chương trình (sớm 1 năm).
Khung thể chế phát triển nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt thể chế nhằm tái cơ cấu ngành được hoàn thiện. Luật Trồng trọt, Luật Chăn nuôi được Quốc hội phê duyệt cùng các văn bản hướng dẫn ra đời ta tạo hành lang pháp lý đầy đủ cho tất cả các tiểu ngành thuộc lĩnh vực sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản. Những chính sách mang tính bản lề để phát triển chuỗi giá trị nông sản đã được các cơ quan trình Chính phủ ban hành đồng bộ, như: Nghị định số 57/2018/NĐ-CP, ngày 17/04/2018 về cơ chế chính sách, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; Nghị định số 58/2018/NĐ-CP, ngày 18/04/2018 về bảo hiểm nông nghiệp; Nghị định số 98/2018/NĐ-CP, ngày 05/07/2018 về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; Nghị định số 116/2018/NĐ-CP, ngày 07/09/2018 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 55/2015/NĐ-CP về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Hệ thống chính sách này được kỳ vọng sẽ trở thành động lực tăng trưởng mới của ngành nông nghiệp trong giai đoạn tới đây.
Thủ tục hành chính được cắt giảm mạnh mẽ. Nhằm xây dựng môi trường đầu tư kinh doanh minh bạch, lành mạnh và cạnh tranh, đồng thời thực hiện các nghị quyết của Chính phủ: Nghị quyết số 35/NQ-CP, ngày 16/05/2016 về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020; các nghị quyết số 19 về hỗ trợ doanh nghiệp và cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 123/2018/NĐ-CP, ngày 17/09/2018 sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định về điều kiện đầu tư, kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp. Nghị định đã cắt giảm 173/345 điều kiện (đạt tỷ lệ 50%), trong đó 65 điều kiện được sửa đổi, đơn giản hóa, 108 điều kiện được bãi bỏ. Đồng thời, thực hiện cắt giảm danh mục hàng hóa phải kiểm tra chuyên ngành từ 7.698 dòng hàng xuống còn 1.768 dòng hàng (tỷ lệ cắt giảm: trên 77%). Kết quả cắt giảm được thể chế hóa tại Thông tư số 15/2018/TT-BNNPTNT, ngày 30/10/2018 ban hành bảng mã HS đối với Danh mục hàng hóa thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (thay thế Thông tư số 24/2017/TT-BNNPTNT). Đây cũng là cơ sở để tiết kiệm các chi phí đầu tư, thúc đẩy làn sóng khởi nghiệp trong nông nghiệp, nông thôn.
Tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những kết quả tích cực, trong năm 2018, ngành nông nghiệp đang tồn tại một số hạn chế sau:
Một là, năng suất lao động, chất lượng và khả năng cạnh tranh của nhiều loại nông sản mặc dù đã được cải thiện nhưng vẫn còn thấp, nhất là trong bối cảnh nước ta hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng. Năng suất lao động khu vực nông, lâm, thủy sản năm 2018 đạt 38,7 triệu đồng/lao động, tăng 8,1 triệu đồng/lao động so với cuối năm 2015, nhưng chỉ bằng 37,8% mức năng suất lao động chung của nền kinh tế (cũng trong 4 năm 2015-2018, năng suất lao động của cả nền kinh tế tăng 22,9 triệu đồng/lao động)
Hai là, năng lực sản xuất lớn trong khi thị trường tiêu thụ diễn biến khó lường; công tác dự báo cung, cầu yếu, nên có lúc, có nơi đã xảy ra tình trạng nông sản bị tồn đọng, tiêu thụ bị chậm, giá giảm, ảnh hưởng đến sản xuất, thu nhập và đời sống của người dân. Chính sách liên kết theo Nghị định số 98/2018/NĐ-CP khó tạo đột phá trong việc hình thành liên kết, chuỗi giá trị nông sản một cách bền vững do mới chỉ tập trung vào khuyến khích, hỗ trợ xây dựng liên kết; chưa có nhiều giải pháp xử lý các vấn đề cốt lõi trong liên kết là phân chia lợi nhuận trong các khâu của chuỗi liên kết, vấn đề đảm bảo việc tuân thủ hợp đồng.
Ba là, tình trạng lưu thông, sử dụng các loại vật tư phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y và sử dụng chất cấm trong sản xuất thức ăn chăn nuôi và vệ sinh an toàn thực phẩm tuy đã có những chuyển biến tích cực, song vẫn còn những vụ việc vi phạm nghiêm trọng gây bức xúc trong xã hội. Đối với ngành thủy sản, dù đã có cố gắng thực hiện các giải pháp theo khuyến nghị của EU nhưng vẫn chưa được khu vực này thu hồi "thẻ vàng" đối với thủy sản Việt Nam.
Ngoài ra, nhiều hạn chế, tồn tại mang tính cố hữu của ngành nhưng chậm được sửa đổi, khắc phục, như: Cơ cấu lại ngành vẫn chậm và chưa đồng đều ở các địa phương; Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất còn chậm, số lượng doanh nghiệp đầu tư liên quan trong lĩnh vực chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số doanh nghiệp (8%); Tổ chức sản xuất liên kết theo chuỗi giá trị giữa doanh nghiệp và người dân chưa phổ biến; Kinh tế hộ nhỏ lẻ vẫn chiếm tỷ trọng cao và tiếp tục bộc lộ những hạn chế cản trở quá trình sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn; Tích tụ đất đai, dồn điền đổi thửa có xu hướng chậm lại, chưa tạo đột phá trong thể chế (Diện tích đất sản xuất nông nghiệp bình quân/hộ 5.804 m2, vùng Đồng bằng sông Hồng chỉ có 1.852 m2; số thửa nông nghiệp bình quân/hộ 2,5 thửa); Việc chuyển đổi diện tích đất lúa kém hiệu quả sang các cây trồng khác chuyển biến chậm, nhiều loại cây có lợi thế được định hướng để trồng thay thế, như: ngô, đậu tương lại có xu hướng giảm…
Định hướng phát triển ngành nông nghiệp trong năm 2019
Tại Nghị quyết số 01/NQ-CP, ngày 01/01/2019 của Chính phủ về nhiệm vụ, mục tiêu và giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội năm 2019, định hướng phát triển ngành nông nghiệp là “Thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới. Đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất nông, lâm, thủy sản; phát triển chuỗi từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ, xuất khẩu phù hợp với điều kiện vùng, miền, sản phẩm, ngành hàng; coi phát triển nông nghiệp hiệu quả cao là trọng tâm, ứng dụng công nghệ cao, công nghiệp chế biến, bảo quản nông sản và phát triển thị trường là khâu đột phá. Nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh và khả năng tiếp cận thị trường cho sản phẩm từ khu vực nông thôn, thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm có lợi thế. Phấn đấu tăng trưởng nông nghiệp đạt khoảng 3%, xuất khẩu đạt 42-43 tỷ USD; có 50% số xã và ít nhất 70 đơn vị cấp huyện được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới, cơ bản không còn xã dưới 5 tiêu chí, mỗi tỉnh có 1 huyện đạt chuẩn nông thôn mới, hoàn thành sớm mục tiêu kế hoạch 5 năm trong năm 2019; đẩy mạnh triển khai Chương trình "mỗi xã một sản phẩm" (OCOP); Đề án phát triển 15.000 hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã nông nghiệp hoạt động có hiệu quả đến năm 2020; triển khai Đề án xây dựng nông thôn mới cấp thôn bản, xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu; xây dựng, triển khai Đề án phát triển du lịch nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; xử lý dứt điểm và chấm dứt tình trạng phát sinh nợ đọng xây dựng cơ bản trong xây dựng nông thôn mới.”
Ngoài ra, tại Hội nghị triển khai kế hoạch năm 2019 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã chỉ đạo ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phải khơi gợi được khát vọng của dân tộc, phải phấn đấu trong 10 năm nữa đưa Việt Nam lọt vào nhóm 15 quốc gia có nền nông nghiệp phát triển nhất; Phải phấn đấu trở thành trung tâm chế biến, xuất khẩu đồ gỗ, lâm sản hàng đầu thế giới, là "công xưởng tôm" của thế giới.
Để thực hiện mục tiêu trên, thời gian tới, cần thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp, trong đó có một số nhiệm vụ trọng tâm sau:
Thứ nhất, tiếp tục cắt giảm thủ tục hành chính: Tiếp tục cắt giảm thủ tục hành chính, điều kiện kiểm tra chuyên ngành, đẩy mạnh xã hội hóa các dịch vụ công trong lĩnh vực nông nghiệp (đặc biệt các dịch vụ đã chứng minh hiệu quả tại các nước phát triển, như : chứng nhận chất lượng, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, khuyến nông). Việc nâng cao hiệu quả quản lý sản xuất nông nghiệp không những giảm bớt gánh nặng đối với nhà nước, mà còn bảo vệ nhà đầu tư chân chính, phát triển nông nghiệp sạch, xây dựng thương hiệu nông sản Việt Nam. Về lâu dài cần nghiên cứu, sửa đổi toàn diện các luật liên quan đến đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn hoặc xây dựng Luật Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp để kiến tạo môi trường đầu tư thuận lợi, tạo động lực hấp dẫn thu hút các doanh nghiệp đầu tư.
Thứ hai, về chính sách đất đai: Nhanh chóng có giải pháp tạo quỹ đất, quy hoạch các vùng đất sản xuất nông nghiệp, vùng nguyên liệu minh bạch, ổn định. Xây dựng và tổ chức các mô hình tích tụ, tập trung đất nông nghiệp tại một số địa phương làm cơ sở hoàn thiện chính sách đất đai, đảm bảo hài hòa lợi ích của người dân, doanh nghiệp và Nhà nước. Nghiên cứu xây dựng thể chế để nông dân cho thuê đất nông nghiệp, vẫn tích tụ được đất đai cho sản xuất lớn, nhưng người nông dân không mất tư liệu sản xuất.
Thứ ba, về ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến, hiện đại phục vụ sản xuất, kinh doanh trong nông nghiệp, khai thác tối đa những lợi ích của Cách mạng Công nghiệp 4.0: Cần ban hành chính sách đột phá về khoa học và công nghệ, khuyến khích các dự án đầu tư công nghệ trong một số lĩnh vực chủ lực, như: giống cây trồng; công nghệ bảo quản, chế biến sau thu hoạch; mô hình chuỗi cung cấp thực phẩm an toàn, truy xuất nguồn gốc...; Đẩy nhanh việc hình thành các khu/trung tâm nông nghiệp công nghệ cao, trong đó phát triển, thử nghiệm các công nghệ tiên tiến, các mô hình đổi mới sáng tạo phục vụ cho nông nghiệp; quy tụ các nhà đầu tư, doanh nghiệp nông nghiệp, nhà nghiên cứu, tri thức…
Thứ tư, về phát triển thị trường: Năm 2019, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng các hoạt động xúc tiến thương mại trong và ngoài nước; tăng cường phân tích, cảnh báo, dự báo về thông tin thị trường và thông tin rộng rãi đến các địa phương, doanh nghiệp và người sản xuất; tháo gỡ các rào cản, khó khăn vướng mắc về thị trường xuất khẩu kết hợp triển khai các hoạt động quảng bá nhằm khai thác, mở rộng các thị trường mà Việt Nam đã ký và đang đàm phán các hiệp định thương mại (FTA). Đổi mới mô hình đại diện thương mại ở nước ngoài để xúc tiến nông sản Việt Nam đối với các thị trường lớn, trọng tâm, như: Mỹ, châu Âu, Trung Quốc...
Thứ năm, về phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp trong nông nghiệp: Tăng cường đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực khoa học - kỹ thuật trong lĩnh vực nông nghiệp; Hỗ trợ đào tạo nông dân; lao động trong trang trại; lao động trong doanh nghiệp nông nghiệp, thành viên hợp tác xã. Xây dựng và ban hành chính sách thu hút chuyên gia trong và ngoài nước thuộc lĩnh vực nông nghiệp, kết nối với các doanh nghiệp nông nghiệp.
Thứ sáu, về tăng cường nguồn lực đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn: Triển khai tốt các chính sách đầu tư, tín dụng, bảo hiểm và liên kết trong sản xuất nông nghiệp để nâng cao tỷ trọng đầu tư cho lĩnh vực trong tổng đầu tư toàn xã hội. Trong đó, ngân sách tiếp tục phải đóng vai trò thúc đẩy thu hút nguồn vốn này, đạt mục tiêu 5 sau cao gấp 2 lần 5 năm trước như quy định của Nghị quyết trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn./.
Trần Anh Dũng, Phó Vụ trưởng, Vụ Kinh tế nông nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Đào Thị Hương Trường Đại học Sư phạm kỹ thuật Hưng Yên
Theo Tạp chí Kinh tế và Dự báo
Bình luận