eMagazine
Tái định hình chuỗi cung ứng toàn cầu: Nhận diện xu hướng, thách thức và giải pháp cho Việt Nam

16:00 | 05/07/2022

Tái định hình chuỗi cung ứng toàn cầu đang diễn ra ngày một mạnh mẽ nhằm ứng phó với những thách thức thời đại như xung đột địa chính trị, chiến tranh thương mại, bảo hộ mậu dịch… Việt Nam, với tính chất của một nền kinh tế mở, chịu tác động rất mạnh từ sự điều chỉnh chính sách của các nền kinh tế lớn, buộc chúng ta phải nhận diện được bối cảnh, thách thức, cơ hội, để có các giải pháp thích ứng trong thực thi khát vọng vươn tầm…
Tái định hình chuỗi cung ứng toàn cầu: Nhận diện xu hướng, thách thức và giải pháp cho Việt Nam

Việt Nam có ưu thế bờ biển dài, cửa ngõ giao thương hàng hóa quốc tế bằng đường biển, với gần 300 bến cảng biển

Tái định hình chuỗi cung ứng toàn cầu: Nhận diện xu hướng, thách thức và giải pháp cho Việt Nam

Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới, thúc đẩy hội nhập và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia với trọng tâm là mở cửa kinh tế, tạo điều kiện kết hợp hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước, mở rộng không gian phát triển. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là đòi hỏi khách quan, đồng thời cũng là nhu cầu nội tại trong tiến trình phát triển kinh tế của các quốc gia.

Trong quá trình vận hành của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, chuỗi cung ứng toàn cầu có vai trò quan trọng, là phương thức không thể thiếu, được ví như tuyến "huyết mạch" của kinh tế thế giới.

Khi dịch Covid-19 bùng phát, chuỗi cung ứng toàn cầu bị đứt gãy, gây xáo trộn kinh tế, xã hội của các quốc gia. Nguyên nhân dẫn đến đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu bao gồm các yếu tố đan xen phức tạp như: hiện tượng thời tiết cực đoan; thiên tai; đại dịch; thiếu hụt nguồn cung và nhân lực; nút thắt logistics và hiệu quả hoạt động cảng thấp; chiến tranh thương mại; xung đột địa chính trị…

Kinh tế nước ta có độ mở lớn, phụ thuộc nhiều vào nguyên, nhiên vật liệu nhập khẩu từ bên ngoài. Vì vậy, chuỗi cung ứng toàn cầu có vai trò quan trọng đối với kinh tế Việt Nam. Những gián đoạn và thay đổi chuỗi cung toàn cầu đều tác động, gây hệ luỵ không nhỏ đến quá trình phát triển đất nước.

1. XU HƯỚNG TÁI ĐỊNH HÌNH VÀ VẬN HÀNH CHUỖI CUNG ỨNG TOÀN CẦU

Khi dịch Covid-19 xảy ra, hầu hết các hoạt động kinh doanh đều bị ảnh hưởng bởi đứt gãy chuỗi cung ứng. Đối với kinh tế Mỹ, vào thời điểm tháng 3 năm 2021, có tới 95% doanh nghiệp phản ánh chuỗi cung ứng của họ bị ảnh hưởng bởi đại dịch. Tuy vậy, sau một thời gian ngắn, giới kinh doanh đã tìm ra giải pháp tăng cường chuỗi cung ứng, nắm bắt cơ hội, tạo dựng niềm tin đối với khách hàng. Đại dịch đã dạy cho cộng đồng doanh nghiệp về tính linh hoạt, dễ thích nghi của chuỗi cung ứng và mạng lưới vận tải hàng hoá trong bối cảnh mới. Từ đó, cộng đồng doanh nghiệp lấy lại cân bằng để tiến hành sản xuất kinh doanh không chỉ trong giai đoạn đại dịch, mà còn phát triển trong thời kỳ bình thường mới.

Đại dịch Covid-19, bất ổn địa chính trị và các yếu tố bất định khác đã tạo nên 5 xu hướng tái định hình và vận hành chuỗi cung ứng toàn cầu.

Thứ nhất, Chuỗi cung ứng linh hoạt, dễ thích nghi, ứng dụng công nghệ số, thúc đẩy thương mại điện tử minh bạch là các yếu tố không thể tách rời với xu hướng phát triển bền vững.

Trong đại dịch, cộng đồng doanh nghiệp nhận thấy chuỗi cung ứng mạnh, bền vững là chuỗi cần có nhiều nhà cung ứng, đồng thời doanh nghiệp sản xuất hàng hoá và doanh nghiệp cung ứng hoạt động trên cùng khu vực địa kinh tế. Steve Sensing, Tổng giám đốc Hãng Giải pháp chuỗi cung ứng toàn cầu (Ryder) của Mỹ đúc kết: “Chuỗi cung ứng mạnh không bao giờ xếp tất cả “trứng vào một giỏ”, đồng thời có lợi thế địa kinh tế với các nhà cung ứng”. Khi đại dịch xảy ra, doanh nghiệp có lợi thế địa kinh tế với các nhà cung ứng sẽ thuận lợi hơn so với các doanh nghiệp khác trong việc đảm bảo nguyên liệu đầu vào cho sản xuất. Điều này phản ánh để tồn tại và thích nghi trong bối cảnh thế giới có biến động và bất định, chuỗi cung ứng cần đa dạng mạng lưới trong cùng khu vực địa kinh tế.

Khi biến động và bất định xảy ra, hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ nhanh chóng chuyển đổi, đòi hỏi các doanh nghiệp cung ứng phải có hệ thống vận chuyển năng động, linh hoạt nhằm đáp ứng ngay nhu cầu thay đổi của khách hàng. Ryder cho thấy, dịch vụ vận tải tăng tới 150% khi Hãng chuyên chở tất cả các loại hàng hoá tiêu dùng đóng gói cho khách hàng. Sự linh hoạt đã tạo cho Ryder khả năng phục vụ người tiêu dùng thực phẩm và đồ uống, đồng thời sử dụng được các toa xe chuyên chở từ kho hàng tới cửa hàng bán lẻ. Vì vậy, chuỗi cung ứng có mạng lưới vận tải năng động, linh hoạt trở thành lợi thế cạnh tranh trong bối cảnh thế giới xảy ra biến cố.

Hiện nay, các nhà cung ứng trong chuỗi cung ứng toàn cầu sử dụng công nghệ số và mô hình kinh doanh nền tảng, tạo môi trường cho các nhà sản xuất và người tiêu dùng trực tiếp tương tác với nhau, thuận lợi trong việc trao đổi hàng hóa, dịch vụ, tiền tệ và tạo nên giá trị cho các bên tham gia. Điều này phản ánh công nghệ số và thương mại điện tử sẽ tiếp tục là xu hướng và giải pháp chủ đạo, quan trọng để vận hành chuỗi cung ứng và thương mại quốc tế trong bối cảnh thế giới có nhiều bất định, tác động mạnh mẽ, sâu rộng tới hoạt động kinh tế, xã hội. Chính ứng dụng công nghệ số đã và đang thúc đẩy hệ thống thương mại điện tử minh bạch, phù hợp với mong đợi của khách hàng và đó cũng sẽ là xu hướng phát triển của chuỗi cung ứng trong thời gian tới.

Thứ hai: Mạng lưới sản xuất toàn cầu vẫn quyết định tương lai của chuỗi cung ứng, nhưng mạng lưới sản xuất khu vực sẽ gia tăng.

Thập kỷ toàn cầu hoá hiện nay vẫn đang tiếp diễn, tuy vậy những bất định và rủi ro chính sách đang thúc đẩy quá trình phân mảnh, khu vực hoá kinh tế diễn ra nhanh và mạnh hơn. Khi khu vực hoá sản xuất tác động đến chuỗi cung ứng, sẽ kéo theo các thay đổi về chính sách của chính phủ ủng hộ việc gia công, chế biến các loại hàng hoá chiến lược tại khu vực, thay vì thuê ở các nơi khác. Hiện nay khu vực hoá thay vì toàn cầu hoá sản xuất chưa thâm nhập vào mạng lưới sản xuất của Mỹ và châu Âu, mặc dù toàn cầu hoá đang phải đối mặt với bất ổn và xáo trộn chính trị.

Xu hướng phân mảnh của kinh tế thế giới là trọng tâm thảo luận tại Diễn đàn kinh tế Thế giới năm 2022 vừa diễn ra tại Davod, Thuỵ Sỹ (Diễn đàn Davod). Các chính phủ và các tập đoàn đa quốc gia đã thảo luận xu hướng phân mảnh - nghĩa là chọn hợp tác với các quốc gia ở gần, thân thiện với nhau, từ đó định hình chiến lược phát triển cho riêng mình. Xu hướng này sẽ gây tổn hại cho các quốc gia đang hưởng lợi từ hệ thống thương mại toàn cầu.

Cùng với đó, một chủ đề mới - địa kinh tế cũng được thảo luận nhiều tại Diễn đàn Davod, vì thực tế hiện nay việc hợp tác kinh tế đang lệ thuộc rất nhiều vào vị trí địa lý của các đối tác. Nếu gần nhau về địa lý sẽ tránh được rủi ro đứt gãy chuỗi cung ứng. Quá trình toàn cầu hoá cũng chuyển mạnh sang ưu tiên hợp tác giữa các quốc gia thân thiện với nhau nhằm tránh những yếu tố chính trị tác động đến kinh doanh. Chẳng hạn, Mỹ đang hợp tác với Úc để sản xuất đất hiếm, họ chấp nhận chi phí cao hơn, nhưng rủi ro về yếu tố chính trị thấp hơn khi hợp tác với Trung Quốc.

Kinh tế trưởng của IMF cho rằng, thế giới sẽ phân chia thành nhiều khối lớn, không giao thương nhiều với nhau và có các tiêu chuẩn khác nhau và điều này sẽ là “thảm hoạ cho kinh tế toàn cầu”.

IMF cảnh báo việc kinh tế thế giới bị phân mảnh thành các khối địa chính trị với các tiêu chuẩn về thương mại và công nghệ, hệ thống thanh toán và tiền tệ, dự trữ khác nhau sẽ gây ra nhiều biến động, khiến kinh tế toàn cầu bị tổn thất lớn về mặt hiệu quả trong dài hạn.

Thứ ba: Trung Quốc vẫn là công xưởng sản xuất của kinh tế toàn cầu

Bố trí lại mạng lưới sản xuất ra khỏi Trung Quốc đến thị trường mới nổi là chiến lược lâu dài, không thể thực hiện trong ngày một ngày hai của các tập đoàn toàn cầu. Nguồn lợi đem lại từ việc chuyển cơ sở sản xuất ra khỏi Trung Quốc luôn được cân đong đo đếm với những thuận lợi từ nền tảng sản xuất lớn tại Trung Quốc. Hiện nay Trung Quốc vẫn có năng lực cạnh tranh vượt trội về thị trường, hiệu quả theo quy mô, kết cấu hạ tầng, hệ thống logistics, mạng lưới công nghiệp hỗ trợ và nguồn cung lao động có kỹ năng so với các nền kinh tế ở châu Á - Thái Bình Dương.

Mặc dù nhiều nhà đầu tư mong muốn đa dạng mạng lưới sản xuất và phân phối tại các nước Đông Nam Á, nhưng có rất ít giải pháp để thực hiện, vì năng lực hạn chế của các quốc gia này. Các nhà đầu tư luôn phân tích, đánh giá rất thận trọng trong thay đổi cơ hội tăng trưởng chiến lược khi dịch chuyển cơ sở sản xuất đến các nền kinh tế mới nổi khác. Đặc biệt, các nhà đầu tư luôn cân nhắc, so sánh các yếu tố về năng lực và chi phí đầu vào, như chi phí gia công, lao động, vận tải ở các nước khác so với Trung Quốc trước khi đưa ra kế hoạch dịch chuyển đầu tư.

Tái định hình chuỗi cung ứng toàn cầu: Nhận diện xu hướng, thách thức và giải pháp cho Việt Nam

Nhà máy sản xuất của Samsung tại Việt Nam

Thứ tư: Gia tăng toàn cầu hoá dịch vụ

Các dịch vụ như công nghệ thông tin, dịch vụ kinh doanh và tài chính, nghiên cứu và phát triển… đang trở thành dịch vụ toàn cầu, tạo cơ hội tăng trưởng mới, gia tăng cạnh tranh toàn cầu đối với dịch vụ kinh doanh và tài chính, dịch vụ tiêu dùng mới như dịch vụ tư vấn y tế từ xa, chuẩn đoán hình ảnh. Khi các loại dịch vụ này phát triển sẽ kéo theo một loạt loại hình dịch vụ khác. Diễn tiến này đòi hỏi các nhà quản lý phải có cách tiếp cận mới để hạch toán và quản lý hoạt động xuất khẩu dịch vụ toàn cầu.

Cho đến nay, chưa rõ thị trường nào sẽ trở thành “công xưởng toàn cầu” về dịch vụ. Hiện nay, Mỹ đang đi đầu trong xuất khẩu dịch vụ, điển hình là dịch vụ kinh doanh và tài chính. Tuy vậy, các thị trường khác như Trung Quốc, Ấn Độ, Ailen đang phát triển rất nhanh loại hình dịch vụ này và thách thức vị trí hàng đầu của Mỹ.

Khi các loại dịch vụ toàn cầu phát triển sẽ kéo theo sự phát triển đội ngũ lao động kỹ năng cao tại thị trường mới nổi, cạnh tranh với lao động cùng kỹ năng tại thị trường phát triển, làm cho giá dịch vụ toàn cầu sẽ giảm. Khi đó các công ty mong muốn chuyển hoạt động sản xuất và gia công dịch vụ tới các thị trường mới nổi, nơi có nhiều lao động trẻ có kỹ năng cạnh tranh với đội ngũ lao động có cùng trình độ tại các nền kinh tế phát triển với dân số già. Trong thập kỷ tới, cạnh tranh lao động kỹ năng cao giữa thị trường mới nổi với thị trường phát triển sẽ mở ra cơ hội mới trong sử dụng nguồn lao động tài năng toàn cầu. Tuy vậy, cánh cửa này sẽ dần đóng lại khi tiền lương tại các nền kinh tế mới nổi tăng lên. Những hạn chế về vấn đề nhân khẩu học, cùng với mức lương thế giới gia tăng sẽ thúc đẩy quá trình tự động hoá, máy móc và người máy thay thế con người.

Thứ năm: Phát triển chuỗi cung ứng khu vực sẽ gia tăng lạm phát trong thập niên tới

Việc sắp xếp lại chuỗi cung ứng sẽ gia tăng áp lực lạm phát trong thập niên tới. Hệ luỵ của đứt gãy chuỗi cung ứng phản ánh qua giá sản xuất tăng nhanh và cao trong năm 2021, gây ra lạm phát cao, vượt mục tiêu 2% tại khu vực châu Âu, Mỹ, Vương quốc Anh. Thị trường mới nổi như Braxin, Liên bang Nga, Thổ Nhĩ Kỳ, Argentina cũng có lạm phát cao trong năm 2021.

Gia tăng chi phí năng lượng, giá vận chuyển hàng hoá và rủi ro vận chuyển là các yếu tố làm chi phí sản xuất tăng cao. Áp lực tăng giá còn dai dẳng nếu phần lớn lao động gia công giá rẻ bị thay thế bằng lao động bản địa với mức lương cao. Cộng đồng doanh nghiệp cần chuẩn bị chiến lược kinh doanh trong bối cảnh lạm phát cao, dẫn tới chuyển đổi cơ cấu tiêu dùng, khi người dân chỉ tập trung vào những thứ thật cần thiết cho cuộc sống. Các doanh nghiệp cần có quỹ dự phòng xử lý rủi ro lạm phát và gia tăng chi phí vốn, khi chi phí sản xuất tăng do giá nguyên, nhiên vật liệu và tiền lương tăng, đồng thời nhiều ngân hàng trung ương thắt chặt chính sách tiền tệ do lạm phát cao.

2. XU HƯỚNG DỊCH CHUYỂN CHUỖI CUNG ỨNG TOÀN CẦU

Tối ưu hoá sản xuất, giảm chi phí để tối ưu hoá lợi nhuận, giảm thiểu rủi ro từ xung đột chính trị và chiến tranh thương mại, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, việc dịch chuyển chuỗi cung ứng từ quốc gia này sang quốc gia khác là xu hướng khách quan đã và đang diễn ra. Chuỗi cung ứng toàn cầu dịch chuyển theo 3 hướng, đó là:

Một là, dịch chuyển chuỗi cung ứng sang các nước trong cùng khu vực địa lý để giảm phụ thuộc hoặc tránh rủi ro từ chiến tranh thương mại hoặc các đòn trừng phạt lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Hoạt động sản xuất giản đơn, không đòi hỏi công nghệ cao như gia công, lắp ráp có giá trị gia tăng thấp thường được dịch chuyển ra nhiều nước nhằm phân tán rủi ro và tối ưu hóa chi phí sản xuất. Các ngành, lĩnh vực đang có nhiều dịch chuyển theo hướng này bao gồm: dệt may, sản xuất linh kiện, phụ tùng đơn giản;

Hai là, dịch chuyển chuỗi cung ứng đòi hỏi thực hiện đầu tư, thường gắn với hoạt động sản xuất có công nghệ cao, sản phẩm hàng hoá chiến lược có giá trị gia tăng cao, liên quan tới bí mật công nghệ và an ninh quốc gia. Hướng dịch chuyển này đưa đến việc doanh nghiệp di chuyển toàn bộ hoặc một phần sản xuất về chính quốc, diễn ra đối với các nền kinh tế phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Liên minh châu Âu;

Ba là, tái cơ cấu, sắp xếp lại chuỗi cung ứng qua việc đa dạng hoá nguồn cung, mở rộng mạng lưới các nhà cung cấp nhằm phân tán rủi ro, như đặt hàng mua nguyên vật liệu, linh kiện từ nhiều nhà cung ứng tại các nước khác nhau.

Trong thời gian tới, cạnh tranh tham gia chuỗi cung ứng sẽ diễn ra quyết liệt hơn, nhất là giữa các nước đang phát triển có sự tương đồng về thị trường, trình độ nhân lực, công nghệ, như các nước Đông Nam Á, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Mexico.

Để đón nhận sự dịch chuyển chuỗi cung ứng, bên cạnh ổn định chính trị và ổn định vĩ mô, các quốc gia cần chuẩn bị cơ sở hạ tầng, đội ngũ lao động có trình độ, kỹ năng, dễ đào tạo đáp ứng nhu cầu tuyển dụng lao động của các công ty đa quốc gia khi dịch chuyển cơ sở sản xuất sang nước khác để tránh rủi ro từ chiến trang thương mại.

Tái định hình chuỗi cung ứng toàn cầu: Nhận diện xu hướng, thách thức và giải pháp cho Việt Nam

Dự báo cạnh tranh tham gia chuỗi cung ứng sẽ diễn ra quyết liệt hơn, nhất là giữa các nước đang phát triển

3. THAY ĐỔI MÔ HÌNH TOÀN CẦU HOÁ, CHỦ NGHĨA BẢO HỘ MẬU DỊCH QUAY TRỞ LẠI

Toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa thương mại là động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thế giới trong những thập kỷ qua. Tuy vậy, do bất bình đẳng về lợi ích kinh tế giữa các khu vực; giữa các quốc gia; giữa các tầng lớp xã hội trong mỗi quốc gia, dẫn đến xu hướng chống toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại. Một số quốc gia, bằng những chính sách kinh tế ưu đãi, đang kêu gọi và thúc đẩy các nhà đầu tư quay trở về nhằm gia tăng lợi ích quốc gia.

Mỹ ban hành nhiều chính sách nhằm thu hút đầu tư, sản xuất kinh doanh tại Mỹ, như giảm thuế thu nhập từ 25% xuống 21% cho các doanh nghiệp Mỹ, đưa ra nhiều tiêu chuẩn linh hoạt hơn nhằm nâng cao tính cạnh tranh của một số ngành công nghiệp Mỹ. Các nước thuộc cộng đồng chung châu Âu thúc đẩy “kinh tế tự chủ chiến lược”, kiểm soát đầu tư ra nước ngoài. Đức và Italia quy định chặt chẽ hơn đối với đầu tư ra nước ngoài trong các ngành chiến lược; Pháp triển khai chiến lược “sản xuất tại Pháp”, nhằm thúc đẩy sản xuất trong nước đối với các ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cao.

Đứt gãy chuỗi cung ứng, bất ổn địa chính trị đưa đến xu hướng co cụm hợp tác trong từng khối lớn; châu Âu, Mỹ, Trung Quốc đang tìm kế hoạch xây dựng quyền tự chủ kinh tế của chính mình, không còn ủng hộ vô điều kiện toàn cầu hoá và tự do thương mại như trước.

Công nghệ xe hơi là mô hình sản xuất dựa trên nền tảng toàn cầu hoá kinh tế, quy trình chế tạo được chẻ nhỏ, cái gì làm được rẻ nhất ở nước nào thì thuê gia công ở nước đó, với điều kiện phải giao hàng đúng hạn. Chẳng hạn hãng Renault của Pháp thuê tới 17.000 nhà cung cấp trên toàn thế giới chế tạo các linh kiện khác nhau. Khi đại dịch bùng nổ, chíp sản xuất tại châu Á không thể đến được các nhà máy lắp ráp ở châu Âu. Nếu chuỗi cung ứng bị tắc nghẽn, dù chỉ 1 tuần thì mô hình sản xuất toàn cầu hoá cũng bị rối loạn.

Cuộc khủng hoảng Nga - Ukraine đang làm rung chuyển thế giới, tác động trực tiếp đến sự sụp đổ giao dịch thương mại của khu vực phía Đông tiếp giáp với Liên minh châu Âu, tác động gián tiếp đến nhu cầu hàng hoá thế giới, làm giá hàng hoá tăng cao, nguồn cung nguyên liệu thô và linh kiện đầu vào bị gián đoạn. Châu Âu, Mỹ và Nga cấm vận lẫn nhau càng làm giao dịch thương mại thêm phức tạp; trừng phạt kinh tế, chiến tranh thương mại tạo thêm các hàng rào vô hình ngăn cách thị trường.

Trước biến động khó lường, các nhà quản lý và tập đoàn kinh tế đa quốc gia đang bàn thảo việc sửa đổi mô hình toàn cầu hoá sao cho phù hợp với tình hình mới. Tháng 4 năm 2022, Bộ trưởng Tài chính Mỹ Janet Yellen kêu gọi định hình lại toàn cầu mà theo Bà đánh giá là “đang bị đe doạ”.

Tái định hình chuỗi cung ứng toàn cầu: Nhận diện xu hướng, thách thức và giải pháp cho Việt Nam

TS. Nguyễn Bích Lâm: "Nếu phát huy tốt lợi thế, Việt Nam có cơ hội lớn tham gia vào chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu, sẽ thu hút các tập đoàn lớn, tập đoàn công nghệ cao có nhu cầu dịch chuyển sản xuất và chuỗi cung ứng"

Trong thời gian qua, chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch quay trở lại đã gây ra xung đột thương mại giữa các nền kinh tế, cản trở lưu thông hàng hoá, vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp, tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Bảo hộ mậu dịch, với sự xuất hiện nhiều công cụ mới và được áp dụng rộng rãi trên toàn cầu.

Bảo hộ mậu dịch mang lại lợi ích nhất thời cho các nhà sản xuất trong nước, khuyến khích phát triển một số ngành nghề; cân bằng cán cân thanh toán, ổn định nguồn thu ngân sách nhà nước; tăng việc làm mới và phân phối lại thu nhập; bảo đảm an ninh quốc gia. Tuy vậy, bảo hộ mậu dịch tạo cơ hội cho doanh nghiệp trong nước đầu cơ trên giá bán hàng ở mức có lợi nhất, làm nhiễu loạn thị trường; giảm động lực áp dụng các giải pháp nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, gây thiệt hại cho người tiêu dùng.

Bên cạnh đó, bảo hộ mậu dịch tác động tiêu cực tới quá trình hiện đại hoá kinh tế, suy giảm tăng trưởng. Tuy nhiên, trong thời gian tới, xu hướng bảo hộ mậu dịch vẫn sẽ diễn ra, song hành với các vấn đề về toàn cầu hóa và thương mại quốc tế.

4. VIỆT NAM: THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN TRONG BỐI CẢNH THẾ GIỚI MỚI

Về thuận lợi

Trong xu hướng điều chỉnh và chuyển dịch chuỗi cung ứng toàn cầu, Việt Nam có một số lợi thế để tranh thủ sự dịch chuyển chuỗi cung ứng. Việt Nam là điểm đến của các nhà đầu tư nước ngoài với 8 nhóm lợi thế: môi trường vĩ mô ổn định, nền kinh tế năng động, thị trường tiêu thụ ngày càng mở rộng với 100 triệu dân, trong đó tầng lớp trung lưu ngày càng tăng; tình hình chính trị ổn định, nhất quán trong chính sách phát triển kinh tế và thu hút đầu tư nước ngoài; môi trường pháp lý đầy đủ; chính sách đầu tư nước ngoài thông thoáng, mở cửa thị trường, cải cách thủ tục hành chính và ưu đãi đầu tư; môi trường kinh doanh cải thiện, nhiều chỉ số về môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh được cải thiện; Việt Nam đã là thành viên của nhiều hiệp định thương mại đa phương và song phương quan trọng có quy mô, tầm vóc lớn; lực lượng lao động trẻ, dồi dào, dễ đào tạo và chi phí lao động thấp; vị trí địa lý đặc biệt thuận lợi với đường bờ biển dài, nhiều cảng nước sâu, cửa ngõ giao thương hàng hóa quốc tế bằng đường biển. Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng và công nghệ ngày càng đồng bộ cũng là lợi thế, hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài đến với Việt Nam.

Theo báo cáo của UNCTAD, năm 2020, Việt Nam đã trở thành điểm sáng trong thu hút sự chuyển dịch dòng vốn FDI, lần đầu tiên Việt Nam lọt vào TOP 20 nước dẫn đầu thế giới về thu hút FDI. Việt Nam nắm giữ vị thế dẫn đầu trong cuộc đua giành vốn FDI với các đối thủ tiềm năng như: Trung Quốc, Indonesia; Ấn Độ, Mexico.

Năm 2020, Việt Nam là một trong các trung tâm đón làn sóng chuyển dịch đầu tư từ Trung Quốc trong bối cảnh các doanh nghiệp trên thế giới đang đẩy nhanh quá trình đa dạng chuỗi cung ứng. Việt Nam cũng được đánh giá còn nhiều dư địa để cạnh tranh nguồn vốn FDI trong xu hướng chuyển dịch sản xuất toàn cầu hiện nay.

Năm 2021, mặc dù đang trong “vòng xoáy” của đại dịch Covid-19, vốn FDI đổ vào Việt Nam đạt 31,15 tỷ USD tăng 9,2% so với năm 2020. Vốn FDI thực hiện trong khu vực công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 14,3 tỷ USD, chiếm 72,5 % tổng vốn FDI thực hiện. Điều này cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài đang đặt niềm tin rất lớn vào mắt xích Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Nếu Việt Nam phát huy và khai thác tối đa những lợi thế trên, cùng với vị thế thuận lợi, chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, Việt Nam có cơ hội lớn tham gia vào chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu, sẽ thu hút các tập đoàn lớn, tập đoàn công nghệ cao có nhu cầu dịch chuyển sản xuất và chuỗi cung ứng, nhờ đó thúc đẩy mô hình tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Tái định hình chuỗi cung ứng toàn cầu: Nhận diện xu hướng, thách thức và giải pháp cho Việt Nam

37% nguyên vật liệu dùng cho sản xuất của nền kinh tế nước ta phải nhập từ bên ngoài, giá trị gia tăng của các ngành còn thấp

Về khó khăn

Bên cạnh cơ hội và thuận lợi luôn đan xen với thách thức và khó khăn. Môi trường đầu tư của Việt Nam hiện còn một số bất cập chưa được khắc phục, như hạn chế về năng lực quản lý, kết cấu hạ tầng, thủ tục đầu tư, thiếu lao động có kỹ năng, công nghiệp phụ trợ và mạng lưới logistics…

Năng lực của khu vực doanh nghiệp trong nước, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ, là trở ngại lớn để thu hút chuỗi cung ứng của các tập đoàn công nghệ vào Việt Nam cũng như hạn chế khả năng Việt Nam tham gia vào các công đoạn cao trong mạng lưới sản xuất toàn cầu. Đây cũng là điểm hạn chế để Việt Nam thích ứng với xu hướng tái định hình và vận hành chuỗi cung ứng toàn cầu. Những điểm yếu này nếu không sớm khắc phục sẽ làm tăng nguy cơ lún sâu vào bẫy gia công, lắp ráp, khó kiểm soát được các dòng đầu tư chất lượng thấp, đầu tư nước ngoài thâu tóm thị trường và doanh nghiệp trong nước, đầu tư “núp bóng”...

Công nghiệp phụ trợ và nội lực của các ngành sản xuất còn hạn chế, nhiều ngành kinh tế chưa tự chủ được các yếu tố đầu vào, phụ thuộc phần lớn vào nguyên vật liệu, linh kiện, phụ kiện nhập khẩu. Hiện nay, 37% nguyên vật liệu dùng cho sản xuất của nền kinh tế phải nhập từ bên ngoài, giá trị gia tăng của các ngành còn thấp; nhập khẩu nguyên vật liệu cho sản xuất ở một số ngành phụ thuộc vào một số ít thị trường. Chẳng hạn, kinh tế nước ta phụ thuộc khá nhiều vào thị trường Trung Quốc với 25% kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hoá của toàn nền kinh tế đến từ thị trường này; kim ngạch nhập khẩu tư liệu sản xuất từ Trung Quốc chiếm 34% trong tổng kim ngạch nhập khẩu tư liệu sản xuất. Nhiều ngành, tư liệu sản xuất nhập khẩu từ Trung Quốc chiếm tỷ trọng cao như: phân bón chiếm 42%, thuốc trừ sâu 47,3%; sợi dệt 56,6%; vải 63,3%; sản phẩm từ sắt thép chiếm 60,5%…

Hoạt động của chuỗi cung ứng là sự vận hành với quá trình liên kết, phụ thuộc và tác động qua lại của 5 nhóm đối tác: nhà cung ứng nguyên, nhiên vật liệu và các yếu tố đầu vào; nhà sản xuất hàng hoá; nhà phân phối và logistics; đại lý bán lẻ; khách hàng. Trong quá trình tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, Việt Nam đang tập trung phát triển để khẳng định vị thế của nhóm nhà sản xuất hàng hoá trong 5 nhóm đối tác của chuỗi cung ứng. Vai trò của nhà phân phối và logistics còn mờ nhạt, với nhiều hạn chế. Cụ thể, quy mô đội tàu vận tải biển của Việt Nam hiện đứng thứ 3 trong khu vực ASEAN và thứ 28 trên thế giới, hiện đã có doanh nghiệp trong nước đầu tư tàu chuyên dụng, trọng tải lớn, như tàu chở dầu trọng tải tương đương 320 nghìn tấn, nhiều tàu chở hàng rời chuyên dụng trên 100 nghìn tấn. Đây là cơ sở để đội tàu trong nước từng bước chuyển đổi theo xu hướng thế giới với tàu vận tải lớn hơn nhằm tối ưu hoá chi phí vận tải.

Tuy nhiên, có ưu thế bờ biển dài, cửa ngõ giao thương hàng hóa quốc tế bằng đường biển, với gần 300 bến cảng biển, nhưng hơn 90% sản lượng hàng hoá xuất, nhập khẩu của nước ta chủ yếu do các hãng vận tải nước ngoài đảm nhận. Năm 2021, xuất khẩu dịch vụ vận tải của nước ta đạt 446 triệu USD, nhập khẩu dịch vụ vận tải đạt 9.990 triệu USD, Việt Nam nhập siêu dịch vụ vận tải tới 9,54 tỷ USD!

Việc thiếu chủ động trong vận chuyển hàng hoá đã ảnh hưởng rất lớn tới doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam. Trong khi đó, với tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất, nhập khẩu ngày càng cao, để thu được lợi nhuận tối đa, loại trừ rủi ro khi thuê các hãng vận tải quốc tế đối với hoạt động thương mại quốc tế đặt ra vấn đề cấp thiết phải phát triển đội ngũ vận tải biển quốc tế của Việt Nam.

Cơ cấu đội tàu của Việt Nam chưa hợp lý, trọng tải nhỏ, đây chính là nguyên nhân đội tàu vận tải biển trong nước khó cạnh tranh với quốc tế; sản lượng khai thác thấp khó hoà nhập với xu hướng hàng hải quốc tế.

Vận tải biển nước ta phát triển ở 3 phân khúc, chủ yếu vẫn là nội địa, phân khúc châu Á và vượt đại dương chưa đáng kể, đồng thời Việt Nam chưa có nhiều đội tàu quy mô lớn, tải trọng cao. Hiện nay Việt Nam chỉ có đội tàu vận tải nội địa và các tuyến ngắn sang Singapore, Hồng Kông, gần đây Tổng công ty hàng hải mới mở sang Ấn Độ.

Thời gian qua, dù chịu ảnh hưởng của đại dịch thị trường vận tải biển Việt Nam vẫn tăng trưởng ấn tượng, nhiều hãng tàu vẫn thu được lãi nhờ giá cước duy trì ở mức cao. Tuy nhiên để phát triển đội tàu biển quốc tế của Việt Nam rất cần nhiều giải pháp mang tính đồng bộ và lâu dài.

Mạng lưới bán lẻ có vai trò quan trọng trong chuỗi cung ứng, là đối tác trung gian không thể thiếu để đưa hàng hoá tới người tiêu dùng. Trong thời gian qua, các tập đoàn và doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam đang đẩy mạnh đầu tư, giành lại thị phần bán lẻ trong nước sau một thời gian bị chi phối bởi doanh nghiệp nước ngoài.

Bên cạnh một số tập đoàn đầu tư phát triển doanh nghiệp bán lẻ một cách bài bản, có chiến lược, phần lớn doanh nghiệp bán lẻ trong nước có quy mô nhỏ, thiếu vốn, quản trị thiếu chuyên nghiệp, năng lực cạnh tranh yếu, thiếu sự liên kết để tạo sức mạnh chung, nguồn nhân lực chưa được đào tạo... Vì vậy, các doanh nghiệp bán lẻ trong nước cần nỗ lực hoàn thiện về mọi mặt từ đào tạo nguồn nhân lực chuyên nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng hiện đại, đáp ứng yêu cầu ứng dụng công nghệ số.

Trong thời gian tới, cạnh tranh tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu sẽ diễn ra quyết liệt hơn, nhất là giữa các nền kinh tế mới nổi, có sự tương đồng về thị trường, trình độ phát triển, công nghệ và lao động, như các nước Đông Nam Á, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Mexico.

Bất ổn địa chính trị và xu hướng bảo hộ mậu dịch làm tăng trưởng kinh tế thế giới suy giảm, tác động tiêu cực tới ổn định vĩ mô, dòng vốn đầu tư, sản xuất kinh doanh của khu vực doanh nghiệp và thương mại quốc tế, gây nên nhiều khó khăn, thách thức cho kinh tế Việt Nam. Đặc biệt, căng thẳng thương mại Mỹ - Trung và giữa các nền kinh tế khác tác động vừa tích cực, vừa tiêu cực đến thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam. Việt Nam có thể hưởng lợi từ làn sóng dịch chuyển đầu tư từ Trung Quốc sang các nước lân cận, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, Việt Nam sẽ phải đối mặt với nguy cơ thu hẹp đầu tư nước ngoài và sự dịch chuyển dòng vốn đầu tư trở về Mỹ do xung đột thương mại tiềm ẩn nhiều rủi ro, niềm tin của các nhà đầu tư ra nước ngoài suy giảm.

Bên cạnh đó, căng thẳng địa chính trị, xung đột thương mại và bảo hộ mậu dịch trên thế giới, tình hình dịch bệnh gây ra nhiều rủi ro, khiến các nhà đầu tư thận trọng hơn, thậm chí rút vốn từ các thị trường mới nổi về những thị trường ít rủi ro hơn, an toàn hơn vì thế dòng vốn đầu tư gián tiếp vào Việt Nam cũng bị ảnh hưởng.
Tái định hình chuỗi cung ứng toàn cầu: Nhận diện xu hướng, thách thức và giải pháp cho Việt Nam

Để phát triển nhanh và bền vững, Chính phủ cần xây dựng và thực hiện hiệu quả Chiến lược độc lập, tự chủ của nền kinh tế

5. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHO VIỆT NAM

Trong bối cảnh hiện nay, Chính phủ cần điều chỉnh quy hoạch phát triển và chiến lược tổng thể về sản xuất kinh doanh của từng vùng, từng ngành, lĩnh vực khi có sự điều chỉnh nội hàm của tự do kinh tế, toàn cầu hoá, chuỗi cung ứng toàn cầu, chủ nghĩa bảo hộ quay trở lại và những bất định khó lường diễn ra với tần xuất dày hơn. Đồng thời cần xây dựng và thực hiện hiệu quả Chiến lược độc lập, tự chủ của nền kinh tế, nhằm nâng cao sức chống chịu và khả năng cạnh tranh; thích ứng linh hoạt, hiệu quả với những biến động tình hình quốc tế, khu vực và trong nước.

Bộ Công Thương cần chủ động phối hợp với các bộ, ngành và các tổ chức tài chính, kinh tế quốc tế nghiên cứu, đề xuất giải pháp để kinh tế Việt Nam hoà nhịp với xu hướng thay đổi mô hình toàn cầu hoá kinh tế, chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch quay trở lại; hoà nhịp với xu hướng tái định hình và vận hành chuỗi cung ứng toàn cầu nhằm tận dụng các cơ hội, giảm thiểu rủi ro, xử lý những bất cập và thách thức đối với nền kinh tế. Đây là những nội dung quan trọng, cần khẩn trương thực hiện để Chính phủ chủ động trong điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung các chiến lược, chính sách và giải pháp phát triển kinh tế, xã hội trong thời gian tới.

Bên cạnh đó, Bộ Công Thương cần đánh giá thực trạng, vị thế, cơ hội và thách thức của kinh tế Việt Nam tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu và khu vực theo từng nhóm trong 5 nhóm đối tác của chuỗi cung ứng. Từ đó xây dựng chiến lược quốc gia, các giải pháp thực hiện để kinh tế nước ta tham gia hiệu quả vào chuỗi cung ứng toàn cầu và khu vực, giảm thiểu khó khăn, thách thức do đứt gãy chuỗi cung ứng, tác động tới quá trình phát triển kinh tế, xã hội.

Bộ Công Thương khẩn trương nghiên cứu, xây dựng Chiến lược đa dạng nguồn cung nguyên, nhiên vật liệu cho nền kinh tế theo từng ngành, lĩnh vực; từng bước xoá bỏ tình trạng phụ thuộc vào một vài thị trường, nhằm duy trì sản xuất khi diễn ra đứt gãy chuỗi cung ứng và bất ổn địa chính trị. Đặc biệt cần đổi mới cơ bản, toàn diện về quan điểm, sứ mệnh và giải pháp xây dựng, vận hành hệ thống dự trữ quốc gia đối với các mặt hàng chiến lược của nền kinh tế. Nâng cao năng lực, trữ lượng dự trữ các loại nguyên, nhiên vật liệu công nghiệp thiết yếu, quan trọng của đất nước.

Việt Nam cần nghiên cứu, chuẩn bị các điều kiện nền tảng về vật chất và lực lượng lao động để đón đầu, tham gia và phát triển các loại hình và sản phẩm dịch vụ mới trong xu hướng thay đổi chuỗi cung ứng toàn cầu. Tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về cơ chế, vốn để phát triển đội tầu vận tải biển, đặc biệt là đội tàu vận tải biển để tham gia được phân khúc vận tải đường dài, vươn ra các châu lục, phù hợp với xu hướng vận tải biển quốc tế.

Kinh tế nước ta có độ mở lớn, tham gia sâu rộng các hiệp định thương mại tự do trong xu thế toàn cầu hoá và tự do thương mại quốc tế. Vì vậy, khi xung đột địa chính trị, chiến tranh thương mại, xu hướng bảo hộ mậu dịch diễn ra, các nước lớn điều chỉnh chính sách kinh tế sẽ tác động rất mạnh và toàn diện đến kinh tế Việt Nam. Đứng trước diễn biến này, Việt Nam cần có đối sách, giải pháp kịp thời, đồng bộ, phù hợp, nhằm phòng ngừa, hạn chế rủi ro, tận dụng cơ hội của xu thế thay đổi chuỗi cung ứng toàn cầu và định hình lại mô hình phát triển kinh tế thế giới để khai thác, tận dụng các cơ hội, vượt qua khó khăn, thách thức, hiện thực hóa khát vọng phát triển nhanh và bền vững./.

TS. Nguyễn Bích Lâm, nguyên Tổng cục trưởng Tổng Cục Thống kê

Tạp chí Kinh tế và Dự báo 16:00 | 05/07/2022