Thủ tướng nhấn mạnh yêu cầu lựa chọn
Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW. Ảnh: VGP

Sáng 5/2, tại thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 03/11/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh Vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và xúc tiến đầu tư vùng.

Với chủ đề "Liên kết - Đột phá từ kinh tế biển - Phát triển nhanh và bền vững", đây là hội nghị "3 trong 1" với 3 nội dung chính: Triển lãm thành tựu phát triển kinh tế - xã hội và giới thiệu nông sản đặc trưng của Vùng; công bố, triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW của Bộ Chính trị; xúc tiến đầu tư Vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ

Phát biểu kết luận Hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính yêu cầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các bộ, ngành liên quan và Văn phòng Chính phủ tổng hợp, nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của các đại biểu để hoàn thiện thêm chương trình, kế hoạch và nâng cao hiệu quả, tính khả thi trong việc xây dựng, triển khai các cơ chế, chính sách phát triển vùng, các địa phương trong Vùng.

Vùng đạt tăng trưởng kinh tế cao hơn bình quân cả nước

Thống nhất với các báo cáo và ý kiến phát biểu, đồng thời nhấn mạnh một số nội dung trọng tâm, Thủ tướng dành nhiều thời gian phân tích về vị trí, vai trò, tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh của Vùng so với các vùng trong cả nước và một số lĩnh vực có thể so với khu vực và thế giới, như các di sản được UNESCO công nhận.

Với diện tích tự nhiên 95.860 km2 (chiếm 28,9% diện tích cả nước), Vùng có vai trò, vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường, đối ngoại và quốc phòng, an ninh, chủ quyền biển đảo; cầu nối quan trọng trong giao lưu kinh tế, văn hóa quốc tế; các tỉnh đều có "rừng vàng, biển bạc"…

Đến nay, Bộ Chính trị đã ban hành 9 nghị quyết về cơ chế đặc thù cho các địa phương, trong đó có tới 5 nghị quyết cho các địa phương trong Vùng, gồm Thanh Hóa, Nghệ An, Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế và Khánh Hòa.

Vùng đạt tăng trưởng kinh tế cao hơn bình quân cả nước, giai đoạn 2005-2020 bình quân đạt 7,3%/năm so với cả nước là 6,36%. Quy mô kinh tế năm 2020 gấp 9,1 lần so với năm 2004, chiếm 14,5% GDP cả nước (xếp thứ 3/6 vùng); GRDP bình quân đầu người đạt 56,9 triệu đồng/người/năm (gấp 7 lần so năm 2005).

Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tương đối nhanh theo hướng tăng tỉ trọng công nghiệp - xây dựng, dịch vụ (năm 2020 lần lượt là 31,82% và 40,81%); du lịch dần trở thành ngành mũi nhọn (giai đoạn 2005-2019 tăng 16%). Đã hình thành, phát triển một số ngành kinh tế quan trọng như: Hóa dầu (2 nhà máy hóa dầu), thép, ô tô, cơ khí… thúc đẩy tăng trưởng Vùng.

Thu ngân sách tăng khá (năm 2021 chiếm 13,5% tổng thu ngân sách Nhà nước), một số địa phương đã cân đối được ngân sách và có điều tiết về Trung ương (4/14 địa phương).

Kết cấu hạ tầng giao thông khá đồng bộ (hệ thống quốc lộ với 57 tuyến, dài 8.366 km); phát triển đô thị đạt kết quả tích cực (năm 2021 tỉ lệ đô thị đạt 37,5%, xếp 3/6 vùng kinh tế - xã hội).

Tỉ lệ hộ nghèo giảm nhanh (từ 12,9% năm 2016 xuống 2,93% năm 2021); đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Quốc phòng, an ninh được giữ vững, bảo vệ vững chắc biên giới, lãnh thổ, chủ quyền quốc gia. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đẩy mạnh.

Theo Thủ tướng, những thành tựu trong thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW năm 2004 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh Vùng Bắc Trung Bộ, duyên hải Trung Bộ đến năm 2010 và Kết luận số 25-KL/TW năm 2022 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW đã khẳng định chủ trương đúng đắn và kịp thời của Đảng và Nhà nước thực sự đi vào cuộc sống, phát huy hiệu quả tích cực, góp phần tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

Biến vùng đất này thành vùng đất giàu có, giàu bản sắc văn hóa và nhiều đột phá hơn

Thủ tướng Phạm Minh Chính bày tỏ băn khoăn, trăn trở về cả 3 đột phá chiến lược của Vùng. Theo đó, hạ tầng kết nối, gồm cả hạ tầng cứng và mềm, cả liên kết nội vùng, liên vùng và với cả nước, với thế giới; kết nối về thể chế, ý tưởng, đổi mới sáng tạo… nhất là kết nối hạ tầng giao thông; việc phát triển hạ tầng y tế, giáo dục, xã hội… còn hạn chế.

Đồng thời, Thủ tướng đặt vấn đề khai thác, phát huy tối đa nguồn lực con người như thế nào. Cùng với đó là thể chế, cơ chế, chính sách còn nhiều vướng mắc cần tháo gỡ.

Thủ tướng nhấn mạnh yêu cầu lựa chọn
Thủ tướng Phạm Minh Chính bày tỏ băn khoăn, trăn trở về cả 3 đột phá chiến lược của vùng. Ảnh: VGP

Nhấn mạnh quyết tâm biến vùng đất này thành vùng đất giàu có, giàu bản sắc văn hóa và nhiều đột phá hơn nữa, Thủ tướng nêu rõ các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo.

Xây dựng Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ là vùng phát triển năng động, nhanh, bền vững, mạnh về kinh tế biển; có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại, có khả năng chống chịu cao với thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu; có một số trung tâm công nghiệp, dịch vụ, hợp tác quốc tế lớn ngang tầm khu vực châu Á.

Theo đó, Thủ tướng cho rằng, phải quán triệt nghiêm túc, thực hiện quyết liệt, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp phát triển Vùng theo tinh thần các nghị quyết, kết luận của Đảng, Quốc hội, Chính phủ; các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch do Thủ tướng Chính phủ ban hành.

Trong đó, quán triệt và thực hiện nghiêm túc 5 quan điểm phát triển Vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ theo Nghị quyết số 26-NQ/TW của Bộ Chính trị. "Phải nhận thức thật đúng và giải quyết thật tốt mối quan hệ giữa phát triển Vùng và phát triển chung của cả nước: Cả nước vì Vùng và Vùng vì cả nước" như chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Triển khai Nghị quyết số 26-NQ/TW, với cách làm, tư duy, phương pháp luận, cách tiếp cận mới, tổng thể, quyết tâm phải cao, nỗ lực phải lớn, hành động quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm, tổ chức thực hiện khoa học, hợp lý, triển khai các giải pháp cụ thể, thiết thực, hiệu quả.

Cùng với đó, phải bám sát thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng thực tiễn, lấy thực tiễn làm thước đo; phản ứng chính sách kịp thời, phù hợp, hiệu quả.

Thủ tướng khẳng định, phải có tư duy, phương pháp luận, cách tiếp cận phù hợp để giải quyết các nút thắt, các vấn đề đặt ra đúng, trúng, hiệu quả như kết nối giao thông, phát triển các hạ tầng khác và thu hút nguồn lực. Triển khai công việc có trọng tâm, trọng điểm; làm đến đâu chắc đến đó, việc nào dứt việc đó.

Phát huy mạnh mẽ tinh thần tự lực, tự cường, không trông chờ, ỷ lại, "đi lên từ bàn tay, khối óc, mảnh đất, khung trời, cửa biển của mình"; kết hợp hài hòa, hợp lý, hiệu quả giữa nguồn lực bên trong và nguồn lực bên ngoài. Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo gắn với nguồn lực con người, truyền thống lịch sử, cách mạng, văn hóa, ý chí quật cường.

Thủ tướng nhấn mạnh yêu cầu phải lấy người dân và doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể, là mục tiêu, là nguồn lực, động lực phát triển; mọi chính sách phải hướng tới người dân, doanh nghiệp và người dân, doanh nghiệp phải tích cực hưởng ứng, tham gia, thực hiện chính sách.

Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, cá thể hóa trách nhiệm đi đôi với phân bổ nguồn lực phù hợp, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ thực thi, tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực.

Về các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, Thủ tướng nhấn mạnh trước hết yêu cầu các bộ, ngành và 14 địa phương trong Vùng khẩn trương xây dựng Chương trình, Kế hoạch hành động để thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Nghị quyết số 26-NQ/TW của Bộ Chính trị, Chương trình hành động của Chính phủ.

Cùng với đó, tập trung hoàn thiện thể chế, quy hoạch Vùng và chính sách liên kết vùng. Rà soát, hoàn thiện quy định pháp lý, cơ chế, chính sách liên kết vùng đồng bộ, nhất quán, hiệu quả, tinh thần là giao các đồng chí lãnh đạo Chính phủ chỉ đạo cơ quan điều phối các vùng.

Làm tốt công tác quy hoạch giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 để điều phối, quản lý thống nhất, bảo đảm tính liên kết, đồng bộ, thống nhất, hiệu quả và phát triển bền vững. Xác định công tác quy hoạch là nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm, quy hoạch phải đi trước một bước, có tầm nhìn dài hạn, chiến lược, vừa phát huy tiềm năng, thế mạnh, vừa khắc phục hạn chế.

Hình thành các cụm liên kết ngành liên tỉnh, liên vùng gắn với các trung tâm kinh tế biển mạnh. Tập trung đầu tư, nâng cấp hệ thống hạ tầng trọng yếu (giao thông, năng lượng, công nghệ số, đô thị, giáo dục, đào tạo, y tế, du lịch, dịch vụ…).

Triển khai Nghị quyết số 26-NQ/TW với cách làm, tư duy, phương pháp luận, cách tiếp cận mới, tổng thể, quyết tâm phải cao, nỗ lực phải lớn, hành động quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm, tổ chức thực hiện khoa học, hợp lý, triển khai các giải pháp cụ thể, thiết thực, hiệu quả.

Thứ ba, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy phát triển kinh tế biển, tập trung cho 3 động lực tăng trưởng (đầu tư, tiêu dùng và xuất khẩu). Cơ cấu lại ngành công nghiệp, quy hoạch hợp lý để phân bố không gian công nghiệp theo các hành lang kinh tế ven biển gắn với các cảng biển, Hành lang kinh tế Đông - Tây, các tuyến quốc lộ kết nối với Tây Nguyên. Trọng tâm là phát triển công nghiệp hàm lượng công nghệ cao, các công nghệ chủ chốt của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo đột phá hình thành năng lực sản xuất mới.

Đổi mới mô hình phát triển nông nghiệp theo hướng kinh tế nông nghiệp, liên kết, giá trị gia tăng, sinh thái, đặc hữu; thích ứng hiệu quả với thời tiết cực đoan, biến đổi khí hậu; gắn với xây dựng nông thôn mới và phát triển du lịch. Phát triển ngành lâm nghiệp hiện đại, hiệu quả cao, gắn với phát triển, bảo vệ rừng, bảo tồn đa dạng sinh học.

Phát triển mạnh kinh tế biển kết hợp với bảo đảm quốc phòng, an ninh. Phát triển thủy sản thành ngành sản xuất chiến lược, hiện đại, bền vững, bảo vệ môi trường và hệ sinh thái biển; hình thành các trung tâm dịch vụ hậu cần nghề cá.

Thúc đẩy phát triển dịch vụ dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, dịch vụ mới; hình thành các trung tâm logistics gắn với cảng biển, cảng hàng không, cửa khẩu. Phát triển các trung tâm du lịch tầm vóc khu vực và quốc tế, chú trọng tính chuyên nghiệp, hiện đại, đa dạng, bản sắc độc đáo riêng của Vùng.

Thứ tư, phát triển mạnh hệ thống đô thị, đẩy mạnh đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội Vùng, nhất là hạ tầng giao thông. Phát triển hệ thống đô thị có kết cấu hạ tầng kỹ thuật, xã hội đồng bộ, hiện đại theo mô hình, tiêu chí xanh, thông minh, sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu, hình thành ba tiểu vùng đô thị hóa với các đô thị trung tâm, đô thị hạt nhân, gắn với các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu công nghệ cao, trung tâm thương mại, dịch vụ.

Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông vùng đồng bộ, hiện đại, kết nối nội vùng và liên vùng. Nghiên cứu đầu tư, nâng cấp các tuyến cao tốc trục ngang kết nối cửa khẩu quốc tế với cảng biển, đường sắt kết nối với Tây Nguyên, trong đó có tuyến Kon Tum - Gia Lai - Bình Định, Lâm Đồng - Ninh Thuận. Nâng cấp, nâng cao hiệu quả khai thác các cảng hàng không, cảng biển.

Thứ năm, quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên, nhất là tài nguyên biển, đảo, đất và rừng. Bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu phải được xem là một trọng tâm trong chiến lược phát triển Vùng.

Nâng cao năng lực phân tích, dự báo kịp thời, chính xác, bảo đảm hoạt động tham mưu, chỉ đạo, điều hành phòng, chống thiên tai trong mọi tình huống. Tăng cường ý thức phòng, chống thiên tai, cảnh báo các nguy cơ; sẵn sàng lực lượng, phương tiện, phương án ứng phó thiên tai.

Thứ sáu, phát triển toàn diện văn hóa - xã hội. Thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Tập trung phát triển sản xuất, xóa đói, giảm nghèo nhanh và bền vững; rà soát lại, tập trung triển khai có hiệu quả 3 chương trình mục tiêu quốc gia.

Thứ bảy, bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại. Thực hiện các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, quản lý biên giới, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ biển, đảo, không để bị động, bất ngờ. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh trật tự, an toàn xã hội; xử lý kịp thời những vấn đề về an ninh, trật tự, không để phát sinh các điểm nóng. Tăng cường hợp tác quốc tế, nhất là các nước Tiểu vùng sông Mekong, ASEAN, các đối tác có thế mạnh về các ngành kinh tế biển, bảo vệ tài nguyên, môi trường biển...

Thứ tám, về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, Thủ tướng yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có bản lĩnh chính trị, chuyên nghiệp cao, trong sạch, tận tuỵ, năng động, sáng tạo, có tư duy đổi mới, có tầm nhìn chiến lược, nhất là đội ngũ lãnh đạo, quản lý các cấp.

Thực hiện hiệu quả các chủ trương về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn; hoạt động hiệu lực, hiệu quả; tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí./.