eMagazine
Vẫn còn “độ chênh” giữa cam kết quốc tế và quy định nội luật về quyền sở hữu trí tuệ

09:41 | 25/03/2022

Hơn nữa, việc gia tăng các cơ hội kinh tế trong bối cảnh thực thi các FTA cũng có thể tạo thêm “động lực” cho các doanh nghiệp và cá nhân xâm phạm quyền SHTT.
Vẫn còn “độ chênh” trong các cam kết quốc tế và các quy định nội luật về quyền SHTT

TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM)

Vẫn còn “độ chênh” trong cam kết quốc tế và quy định nội luật về quyền sở hữu trí tuệ

Hơn nữa, việc gia tăng các cơ hội kinh tế trong bối cảnh thực thi các FTA cũng có thể tạo thêm “động lực” cho các doanh nghiệp và cá nhân xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ (SHTT).

Ngày 24/03/2022, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương tổ chức Hội thảo công bố báo cáo “Cải cách kinh tế nhằm bảo hộ sở hữu trí tuệ hiệu quả trong bối cảnh hội nhập kinh tế và chuyển đổi số ở Việt Nam”. Hội thảo được tổ chức trong khung khổ Chương trình Australia hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam theo hình thức kết hợp trực tiếp với trực tuyến, bảo đảm tuân thủ đầy đủ các quy định về phòng chống dịch COVID-19.

Tại Hội thảo, TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cho biết, kể từ khi bắt đầu đổi mới vào năm 1986, Việt Nam đã tiến hành cải cách toàn diện và đã đạt được hàng loạt những thành tựu và duy trì liên tục về kinh tế xã hội.

Tuy nhiên, Việt Nam cũng đang phải đối mặt với một loạt thách thức đối với quá trình phát triển. Những thách thức này có thể đã được nhận diện trong nhiều năm như, mô hình kinh tế dựa trên lao động giá rẻ và tài nguyên thiên nhiên đang mất dần lợi thế cạnh tranh, nguy cơ bị mắc kẹt trong bẫy thu nhập trung bình và nguy cơ già hóa dân số, hay có những thách thức mới trong tạo động lực cho phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội bền vững hậu COVID-19.

Những rủi ro thách thức đó đã đặt ra yêu cầu bức thiết cần phải thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tăng cường ứng dụng khoa học và công nghệ gắn với cải thiện năng suất trong nền kinh tế. Yêu cầu này càng cấp bách hơn trong bối cảnh Cách mạng Công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số đang có những bước tiến như vũ bão. Bắt kịp và tiến cùng thế giới trong Cách mạng Công nghiệp 4.0 đòi hỏi Việt Nam phải nâng cao đáng kể năng lực nghiên cứu và phát triển.

Chủ trương mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế trong những thập niên vừa qua đã ảnh hưởng đáng kể đến quá trình hoàn thiện khung pháp lý về bảo hộ SHTT ở Việt Nam. Những mốc nổi bật như Hiệp định thương mại song phương Việt Nam-Hoa Kỳ ký kết vào năm 2000 hay việc trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới vào năm 2007 đều ghi nhận những cam kết quan trọng của Việt Nam đối với hoàn thiện khung pháp lý về bảo hộ SHTT. Gần đây hơn, các hiệp định thương mại tự do quan trọng như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) và Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) đều có những nội dung quan trọng về bảo hộ SHTT.

Theo đó, Việt Nam đã và đang có nhiều nỗ lực bổ sung và sửa đổi các luật và văn bản hướng dẫn để thực thi bảo hộ SHTT và các nội dung liên quan như cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng…

“Dù vậy, một câu hỏi đặt ra là liệu Việt Nam có nên sửa đổi theo đúng phạm vi và lộ trình cam kết, hay cần mạnh dạn hơn trong việc sửa đổi để bảo đảm một khung pháp lý đủ ổn định cho bảo hộ SHTT? Nội dung này càng quan trọng hơn trong bối cảnh đang có những xu hướng mới về hợp tác quốc tế, đặc biệt là các hiệp định về đối tác kinh tế số…”, bà Hồng Minh đặt vấn đề.

DN Việt Nam đã quan tâm hơn đến việc đăng ký xác lập quyền SHTT ở nước ngoài

Từ năm 2014, Việt Nam đã chính thức coi việc đăng ký quyền tài sản, trong đó có tài sản trí tuệ, là một lĩnh vực trọng tâm của cải cách môi trường kinh doanh, năng lực cạnh tranh quốc gia. Nghị quyết số 19/NQ-CP năm 2014 đã đề ra mục tiêu, nhiệm vụ về hoàn thiện các cơ chế, chính sách, quy định “bảo vệ quyền SHTT”; tăng cường quản lý bảo hộ SHTT; nâng cao hiệu lực bảo vệ quyền SHTT; và cơ chế, chính sách hỗ trợ hình thành hệ thống doanh nghiệp khoa học - công nghệ và thị trường công nghệ để mua bán, chuyển giao công nghệ, kể cả bằng sáng chế và quyền SHTT.

Kể từ năm 2019, Nghị quyết 02/NQ-CP đã thay thế Nghị quyết 19/NQ-CP, nhưng vẫn nhấn mạnh tinh thần thúc đẩy cải thiện môi trường cho đổi mới sáng tạo, gắn với các tiêu chí cụ thể về xếp hạng chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của WIPO. Theo đó, cách tiếp cận đối với bảo hộ SHTT gắn với thúc đẩy đổi mới sáng tạo cũng dựa trên so sánh với các đánh giá, thông lệ quốc tế để từ đó tạo sức ép nhằm cải thiện các quy định trong nước - qua đó nhất quán với lịch sử hoàn thiện quy định về bảo hộ SHTT gắn với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam.

TS. Trần Thị Hồng Minh cho biết, trên thực tế, các doanh nghiệp, cá nhân Việt Nam cũng đã quan tâm hơn đến việc đăng ký xác lập quyền SHTT ở nước ngoài.

Mới đây nhất, căn cứ vào 4 tiêu chí gồm số lượng bằng sáng chế, số lượng trích dẫn, thành công của bằng sáng chế và mức độ toàn cầu hóa, Viettel là doanh nghiệp Việt Nam có sức ảnh hưởng nhất về đổi mới sáng tạo năm 2021 khu vực Nam Á và Đông Nam Á.

Vẫn còn “độ chênh” giữa cam kết quốc tế và quy định nội luật về quyền sở hữu trí tuệ
Viettel là doanh nghiệp Việt Nam có sức ảnh hưởng nhất về đổi mới sáng tạo năm 2021 khu vực Nam Á và Đông Nam Á

Một số bằng sáng chế của Việt Nam còn được bảo hộ ở Hoa Kỳ trong những lĩnh vực công nghệ lõi. Chẳng hạn, vào ngày 17/09/2019, Cơ quan Sáng chế và Nhãn hiệu Hoa Kỳ (USPTO) đã cấp văn bằng bảo hộ độc quyền sáng chế số US 10,417,064 B2 cho Viettel với sáng chế “Method of randomly distributing data in distributed multi-core processor systems” số đơn 15/633,743. Tính đến tháng 3/2021, Viettel đã đăng ký là hơn 217 đơn đăng ký sáng chế trong nước và 27 đơn đăng ký sáng chế tại Hoa Kỳ; đã được cấp 28 bằng sáng chế trong nước, 4 bằng sáng chế đã được công nhận ở Hoa Kỳ. Đến tháng 10/2021, Viettel đã có 44 bằng độc quyền sáng chế được cấp tại Việt Nam và 07 bằng sáng chế được cấp tại Hoa Kỳ.

Một ví dụ tích cực khác là ngay từ những năm 2008, tức là nhiều năm trước khi bắt đầu đàm phán EVFTA, Việt Nam đã tiến hành việc nghiên cứu, lập hồ sơ đăng ký bảo hộ tên gọi xuất xứ cho sản phẩm Nước mắm Phú Quốc trên toàn bộ các nước thuộc Liên minh châu Âu. Dự án Hỗ trợ chính sách thương mại đa biên (MUTRAP, pha II) đã cử chuyên gia giúp Hội Sản xuất nước mắm Phú Quốc tiến hành nghiên cứu lập hồ sơ đăng ký. Sau đó, Dự án MUTRAP pha III đã phối hợp với Thương vụ Việt Nam tại Brussels hoàn chỉnh bộ hồ sơ đăng ký của Hội sản xuất nước mắm Phú Quốc trình Ủy ban châu Âu.

Vẫn còn “độ chênh” trong các cam kết quốc tế và các quy định nội luật về quyền SHTTNguồn: CIEM

EU sau đó đã công bố trên công báo của EU quy định số 928/2012 về việc đăng bạ tên gọi xuất xứ “Phú Quốc”cho sản phẩm Nước mắm Phú Quốc. Quy định này đã có hiệu lực từ ngày 31/10/2012, theo đó, sản phẩm Nước mắm Phú Quốc được bảo hộ tên gọi xuất xứ trên toàn bộ lãnh thổ các nước thuộc EU.

Song, hành vi xâm phạm quyền SHTT vẫn diễn ra rất phức tạp

Tuy nhiên, những hành vi xâm phạm quyền SHTT vẫn diễn ra rất phức tạp; các doanh nghiệp rất bức xúc về sự xâm phạm quyền SHTT, xuất hiện nhiều hàng nhái thương hiệu.

Đại diện nhóm nghiên cứu, ông Nguyễn Anh Dương - Trưởng Nghiên cứu tổng hợp (CIEM) lưu ý, cùng với xu hướng phát triển nhanh của thương mại điện tử (TMĐT), đặc biệt là trong bối cảnh dịch COVID-19, các hành vi gian lận thương mại nói chung và hành vi bán hàng giả, hàng nhái ngày càng nở rộ.

Theo báo cáo của Văn phòng Thường trực Ban Chỉ đạo 389 quốc gia, năm 2020 trong công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả, các lực lượng chức năng đã phát hiện, xử lý hơn 185.000 vụ việc vi phạm, thu nộp ngân sách gần 25.000 tỷ đồng (tăng hơn 15% so với cùng kỳ năm 2019), khởi tố 2.543 vụ án, với hơn 3.502 đối tượng. Số vụ việc vi phạm liên quan đến hàng giả, hàng nhái, hàng nhập lậu trong 9 tháng đầu năm 2021 là 129 nghìn vụ.

Ngay trong cơ cấu các phản ánh trên Cổng thông tin quản lý hoạt động TMĐT trong năm 2020, phản ánh về kinh doanh hàng giả, hàng cấm chiếm tỷ lệ tới 7,6%, chỉ thấp hơn so với chưa đăng ký, thông báo; và giả mạo thông tin đăng ký.

Điều này cho thấy, việc sử dụng các biện pháp hành chính có thể chưa tạo đủ sức răn đe đối với hoạt động xâm phạm quyền SHTT.

Mặc dù các quy định hiện hành của Việt Nam đã cơ bản phù hợp với các quy định về thực thi quyền theo các điều ước quốc tế, nhưng ông Dương cho rằng, thực trạng thi hành Luật SHTT phần nào cho thấy sự quan tâm chưa đúng mức của khối doanh nghiệp, các trường đại học và viện nghiên cứu đối với lĩnh vực này, thể hiện ở số lượng ít ỏi đơn đăng ký sáng chế và giải pháp hữu ích mỗi năm.

Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp vẫn thiếu ý thức bảo hộ nhãn hiệu của mình tại các thị trường quốc tế (như vụ việc Café Trung Nguyên phải mua lại thương hiệu của mình tại thị trường Mỹ hoặc nhãn hiệu gạo ST25 bị mất tại thị trường Úc).

Tuy nhiên, nhìn vào số liệu thống kê, số lượng đơn đăng ký sáng chế từ 2010 đến 2020 ở Việt Nam chủ yếu do chủ đơn nước ngoài đăng ký (Hình).

Hình: Số lượng đơn đăng ký sáng chế chia theo nhóm đối tượng chủ đơn, 2010-2020

Vẫn còn “độ chênh” trong các cam kết quốc tế và các quy định nội luật về quyền SHTT

Nguồn: Cục Sở hữu trí tuệ

quyền SHTT bằng biện pháp tư pháp còn chưa đáp ứng được yêu cầu

“Tuy đã có nhiều nỗ lực từ phía các cơ quan thực thi quyền SHTT, nhưng thực tế cho thấy, tình trạng xâm phạm quyền SHTT ở nước ta vẫn đang diễn ra ngày càng phổ biến và phức tạp. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể quyền, làm nản lòng các nhà đầu tư, gây tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế, xã hội. Có thể khẳng định rằng, một trong những điểm yếu và thách thức lớn nhất của hệ thống SHTT của nước ta hiện nay là chính là hiệu quả của hoạt động thực thi quyền còn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, đặc biệt là việc thực thi quyền SHTT bằng biện pháp tư pháp”, ông Dương thẳng thắn.

Ở một chừng mực khác, ông Dương cho rằng, các biện pháp dân sự và hình sự cũng chưa được vận dụng trên nền tảng trực tuyến, để hỗ trợ cho các biện pháp giải quyết tranh chấp trong thương mại liên quan đến SHTT.

“Điều này đã làm ảnh hưởng đáng kể đến thời gian, chi phí liên quan đến xử lý tranh chấp dân sự về SHTT, qua đó làm giảm động lực yêu cầu bảo vệ quyền SHTT cho các chủ thể yếu thế (như doanh nghiệp nhỏ và vừa, phụ nữ, cá nhân sáng tác...”, ông Dương nêu quan điểm.

Từ TPP12 thành TPP11; một số điều khoản tạm hoãn trong CPTPP, gồm 4 điều liên quan đến SHTT: 18.37 , 18.46, 18.48, 18.50.

CPTPP có phạm vi bảo hộ SHTT rộng hơn, mức độ chi tiết hơn TRIPS, chia thành 4 nhóm: (i) Nhóm cam kết chung gồm các cam kết về việc gia nhập các Công ước về SHTT; (ii) Nhóm các cam kết về các tiêu chuẩn bảo hộ SHTT; (iii) Nhóm các cam kết về một số sản phẩm đặc thù như dược phẩm, nông hóa phẩm, giống cây trồng, lĩnh vực công nghẹ thông tin; (iv) Nhóm các cam kết kiên quan tới việc thực thi quyền SHTT.

Về xử lý các tranh chấp phát sinh đối với quyền SHTT, nhiều vụ việc đã được xử phạt hành chính, tập trung chủ yếu ở hàng nhái, hàng giả về nhãn hiệu hoặc vi phạm kiểu dáng công nghiệp.

Tuy nhiên, số tiền xử phạt hành chính tương đối thấp và chưa đủ sức răn đe các đối tượng vi phạm luật SHTT.

So sánh giữa các cam kết quốc tế và pháp luật SHTT tại Việt Nam, chuyên gia này chỉ rõ, các quy định hiện hành của Việt Nam đã cơ bản phù hợp với các quy định về thực thi quyền theo các điều ước quốc tế.

Tuy nhiên, ông Nguyễn Anh Dương cho biết, do tầm bao phủ rộng và mức độ phức tạp của các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia nói chung và tại hai FTA thế hệ mới nói riêng (CPTPP và EVFTA), “độ chênh” trong các cam kết quốc tế và các quy định nội luật về quyền SHTT là khá rộng, dù Việt Nam đã nỗ lực nhiều trong việc sửa đổi các quy định luật pháp trong nước để đảm bảo tương thích với các điều ước quốc tế.

Hiện các FTA thế hệ mới đặt ra một số cam kết quốc tế cao hơn hoặc hoàn toàn mới so với quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam.

Hơn nữa, việc gia tăng các cơ hội kinh tế trong bối cảnh thực thi các FTA cũng có thể tạo thêm môi trường cho các doanh nghiệp và cá nhân xâm phạm quyền SHTT.

Nhóm nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, bảo hộ SHTT tại Việt Nam gặp phải một số khó khăn, như:

(i) Các hiệp định FTA thế hệ mới đã đặt ra một số cam kết quốc tế cao hơn, hoặc hoàn toàn mới so với các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam;

(ii) Cách tiếp cận hoàn thiện pháp luật về bảo hộ SHTT chưa thể hiện sự chủ động rõ nét, chủ yếu bám sát lộ trình và mức độ cam kết, thay vì chuẩn bị sớm và/hoặc mở cửa sâu hơn so với các cam kết quốc tế;

(iii) Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về SHTT nói chung và các nội dung hội nhập kinh tế quốc tế cho doanh nghiệp, cơ quan, cá nhân, tổ chức về cơ bản mới chỉ đạt số lượng và hình thức, nhưng hiệu quả chưa cao;

(iv) Hoạt động thực thi quyền SHTT chưa hiệu quả và còn nhiều bất cập.

Vẫn còn “độ chênh” trong các cam kết quốc tế và các quy định nội luật về quyền SHTT
Ông Nguyễn Anh Dương cho rằng, một trong những điểm yếu và thách thức lớn nhất của hệ thống SHTT của nước ta hiện nay là chính là hiệu quả của hoạt động thực thi quyền còn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.

Những khó khăn đối với bảo hộ SHTT có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan.

Về nguyên nhân khách quan, SHTT là lĩnh vực liên quan đến nhiều bộ, ngành và cần phải có nhiều văn bản hướng dẫn thi hành, đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc xây dựng văn bản để đảm bảo tính thống nhất, nhưng quan hệ phối hợp giữa các cơ quan chưa thực sự chặt chẽ.

Về nguyên nhân chủ quan, nguồn nhân lực và vật lực của các bộ, ngành để thực hiện các nhiệm vụ nội luật hóa về SHTT còn hạn chế, trong khi khối lượng công việc lớn.

Cần thêm những cải cách cho hoạt động bảo hộ SHTT

Tại Hội thảo các chuyên gia cùng chung nhận định rằng, việc sửa đổi, bổ sung pháp luật về SHTT không chỉ có ý nghĩa đối với hội nhập quốc tế mà còn đối với công cuộc chuyển đổi số của đất nước.

Nền kinh tế số đòi hỏi Nhà nước phải có các biện pháp bảo vệ quyền SHTT, đặc biệt đối với các sản phẩm hàng hóa được mua bán qua kênh thương mại điện tử, các sản phẩm kỹ thuật số khi mà chúng dễ bị sao chép và phát tán trên internet. Ngoài ra, các quy định về SHTT được cải thiện sẽ thúc sự phát triển của các công nghệ của Cách mạng Công nghiệp 4.0 như AI, blockchain, dữ liệu lớn...

Ông Nguyễn Anh Dương cho biết, bảo hộ sở hữu trí tuệ (SHTT) được coi là một trụ cột quan trọng nhằm phát huy quyền tài sản từ hoạt động nghiên cứu, cũng như góp phần hoàn thiện khung pháp lý cho việc thương mại hóa các sản phẩm khoa học-công nghệ.

Bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và biến động của các chuỗi cung ứng toàn cầu trong những năm gần đây càng đòi hỏi phải liên kết hiệu quả và quản trị rủi ro giữa các bên tham gia chuỗi cung ứng. Theo đó, bảo đảm niềm tin và cơ sở để xử lý các tranh chấp liên quan đến SHTT là những điều kiện cần thiết, bên cạnh các yếu tố khác.

Ngay cả hệ thống bảo hộ SHTT cũng đã ứng dụng nhiều hơn các thành tựu của công nghệ số, chẳng hạn như công nghệ chuỗi khối (blockchain)...

Trong bối cảnh ấy, dù cách tiếp cận đối với bảo hộ SHTT chỉ ở mức phù hợp với cam kết quốc tế hay vươn tới những thông lệ quốc tế mới vượt qua cả cam kết quốc tế, thì Việt Nam vẫn cần thêm những cải cách cả trực tiếp và bổ trợ cho hoạt động bảo hộ SHTT.

Đồng tình với nhóm nghiên cứu của CIEM, TS. Lê Đăng Doanh nhấn mạnh, nhu cầu cần phải bảo hộ quyền SHTT là 1 vấn đề thực tế cần phải coi trọng. Bởi, việc bảo hộ không chỉ liên quan tới các hiệp định thương mại ký kết, mà đây còn là vấn đề về sự phát triển nội tại của Việt Nam.

Vị chuyên gia này cũng lưu ý rằng, Việt Nam có tỷ lệ phi hình thức doanh nghiệp khá lớn, trong đó chiếm tỷ lệ quan trọng là loại hình hộ gia đình. Theo quy định của pháp luật thì dưới 5 thành viên được gọi là hộ gia đình và trên 5 thành viên thì phải đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật, nhưng trong thực tiễn các hộ gia đình có cả trăm lao động cũng không đăng ký kinh doanh, do liên quan đến các quy định liên quan đến nộp thuế...

"Do vậy, nếu mô hình phi hình thức vẫn tồn tại thì việc thực thi quyền SHTT vẫn sẽ gặp khó khăn", TS. Doanh lưu ý.

Ngoài ra, ông Doanh cũng nhận định rằng, hiện nay quá trình chuyển đổi về kinh tế số cần phải chuyển đổi mạnh mẽ, các mối quan hệ với kinh tế số liên quan đến chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị chiếm hàm lượng cao, vì thế, sự kết nối chặt chẽ với kinh tế số qua đó bảo hộ SHTT sẽ giúp Việt Nam phát triển ngày càng mạnh mẽ hơn

Vẫn còn “độ chênh” trong các cam kết quốc tế và các quy định nội luật về quyền SHTT
Toàn cảnh hội thảo

sửa Luật SHTT: phải có tầm nhìn xa hơn

Theo ông Dương, một yêu cầu đặt ra cho sửa đổi, bổ sung Luật SHTT là phải giúp tiếp cận, nắm bắt được các xu hướng hội nhập đang diễn ra trên thế giới. Trong đó có xu hướng hợp tác về kinh tế số. Mặc dù mới hình thành từ năm 2020, các hiệp định hợp tác về kinh tế số đã nhận được rất nhiều sự chú ý từ các quốc gia.

"Dù chưa tham gia các hiệp định hợp tác về kinh tế số, Việt Nam cũng cần suy nghĩ đến việc sửa Luật SHTT theo hướng “đón đầu” xu hướng hợp tác quốc tế này để chủ động có những chuẩn bị cần thiết”, ông Dương nêu rõ.

Đồng tình với quan điểm này, song người đứng đầu CIEM lưu ý rằng, Việt Nam cần lưu tâm đến bảo vệ cân bằng lợi ích giữa chủ sở hữu quyền SHTT và lợi ích xã hội, tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh, phù hợp với thực tiễn của một nền kinh tế đang phát triển.

Bên cạnh đó, chuyển đổi số cũng đang diễn ra rộng khắp và thay đổi đáng kể phương thức làm việc, hợp tác của các cơ quan, doanh nghiệp, nhà khoa học trên nhiều lĩnh vực.

“Ở góc độ quản lý nhà nước, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong lĩnh vực bảo hộ SHTT có thể giúp tăng cường hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan, đồng thời tạo thuận lợi cho quá trình thiết lập và thực thi quyền đối với tài sản trí tuệ. Chính ở đây, cải cách thể chế cũng cần tạo điều kiện cho việc thúc đẩy chuyển đổi số nhanh, đồng bộ và hiệu quả trong lĩnh vực SHTT”, bà Minh chỉ rõ.

Vẫn còn “độ chênh” giữa cam kết quốc tế và quy định nội luật về quyền sở hữu trí tuệBà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập (VCCI) cho rằng, việc các cam kết muốn vượt lên về mặt lợi ích cần phải thay đổi cải thiện môi trường kinh doanh theo chiều hướng có lợi cho các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài.

Trên cơ sở nghiên cứu, CIEM kiến nghị, cách tiếp cận đối với việc sửa đổi, bổ sung Luật SHTT cần hướng tới nội luật hóa sớm hơn và cao hơn so với các cam kết quốc tế để tạo động lực cho doanh nghiệp và thích ứng với môi trường chuyển đổi số.

Cần nâng cao năng lực và ý thức bảo hộ SHTT cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân (đặc biệt là ở nước ngoài). Cần vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp trực tuyến trong việc xử lý dân sự các tranh chấp liên quan đến quyền SHTT để giảm chi phí cho doanh nghiệp và cá nhân.

Ngoài ra, cần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong quản lý SHTT. Cần tính đến khả năng hợp nhất một số cơ quan quản lý SHTT, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan này.

“Yêu cầu sửa đổi, bổ sung Luật SHTT không chỉ dừng lại ở mục tiêu đáp ứng các yêu cầu của các FTA Việt Nam đang tham gia. Xa hơn, sửa đổi Luật SHTT để chuẩn bị cho nền kinh tế trong nước trước những thay đổi sẽ diễn ra rất nhanh và mạnh trong thời gian tới cả trên lĩnh vực hội nhập và chuyển đổi số”, ông Dương nói.

Sự nổi lên của xu hướng hợp tác về kinh tế số gắn chặt yếu tố thương mại và phát triển kinh tế số cho các quốc gia tham gia hiệp định. Việc cải thiện các nền tảng cơ bản của kinh tế số (như các quy định về dòng lưu chuyển dữ liệu, bảo vệ dữ liệu cá nhân, AI, blockchain, FinTech…) song song với bổ sung và nâng cấp pháp luật về SHTT một cách nhanh chóng, triệt để và có tầm nhìn chiến lược là rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay.

Ông Dương cũng chỉ rõ, các vấn đề về SHTT cần cách tiếp cận đa chiều. Bên cạnh những mặt tích cực trong bảo hộ quyền tác giả, quyền sáng chế, sở hữu công nghiệp, giúp tạo động lực sáng tạo, việc bảo hộ quá đà cũng có khả năng gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường cạnh tranh.

“Việt Nam cần lưu tâm đến bảo vệ cân bằng lợi ích giữa chủ sở hữu quyền SHTT và lợi ích xã hội, tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh, đặc biệt ưu tiên phát triển kinh tế và nâng cao dân trí, vì Việt Nam vẫn là một nước đang phát triển, thay vì tập trung bảo hộ quá gắt gao quyền của một nhóm nhỏ”, ông Dương chia sẻ quan điểm.

Đồng tình với quan điểm của nhóm nghiên cứu, bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập (VCCI) cũng cho rằng, phải tìm ra các giải pháp đưa ra cân bằng giữa tính thực tiễn của kinh tế Việt Nam và lợi ích thực tiễn từ các cam kết này về SHTT.

Theo bà Trang, việc các cam kết muốn vượt lên về mặt lợi ích cần phải thay đổi cải thiện môi trường kinh doanh theo chiều hướng có lợi cho các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài.

Tuy nhiên, trái lại đối với SHTT, nếu nhìn từ góc độ thống kê thì các chủ thể SHTT hiện nay đa số là nước ngoài, nên nếu nâng cao quyền bảo hộ thì chi phí tuân thủ với SHTT sẽ tăng lên, do vậy chi phí này sẽ rất khó để tìm ra điểm cân bằng.

Dẫn chứng tại Úc, thành viên của hiệp định CPTPP, bà Trang cho biết, một số cam kết mạnh về SHTT đặc biệt liên quan đến dược phẩm là 1 thách thức lớn và nếu thực hiện được cam kết này sẽ thay đổi toàn bộ hệ thống y tế như tại Úc.

"Do vậy, vượt lên trên cam kết là một vấn đề không đơn giản", bà Trang chia sẻ.

Ngoài ra, với các cam kết bảo hộ với âm thanh và khuyến khích bảo hộ với mùi, ở Việt Nam chưa có các văn bản quy phạm pháp luật về SHTT với mùi, từ đó gây ra nhiều khó khăn để bảo hộ lĩnh vực này.

Về so sánh giữa việc sử dụng biện pháp hành chính và tòa án trong bảo hộ quyền SHTT, bà Trang cho rằng, việc sử dụng tòa án hiện nay vẫn chưa sâu sắc và cần thêm các nghiên cứu cao hơn.

"Ví dụ trong thực tiễn doanh nghiệp ko cần bồi thường mà chỉ cần các hành vi vi phạm không xảy ra nữa, do vậy trên quan điểm hành chính thì phương án giải quyết sẽ dễ hơn là tòa án, do vậy, biện pháp sử dụng nào hiệu quả hơn hoặc kết hợp giữa biện pháp hành chính và hành chính cùng lúc có tạo nên hiệu quả như mong muốn", bà Trang nêu quan điểm.

Báo cáo đưa ra 04 nhóm kiến nghị chính sách đối với sửa đổi, bổ sung Luật SHTT, cụ thể:

Thứ nhất, cách tiếp cận đối với việc sửa đổi, bổ sung Luật SHTT cần hướng tới nội luật hóa sớm hơn và cao hơn so với các cam kết quốc tế để tạo động lực cho doanh nghiệp và thích ứng với môi trường chuyển đổi số.

Thứ hai, cần nâng cao năng lực và ý thức bảo hộ SHTT cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân (đặc biệt là ở nước ngoài).

Thứ ba, cần vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp trực tuyến trong việc xử lý dân sự các tranh chấp liên quan đến quyền SHTT để giảm chi phí cho doanh nghiệp và cá nhân.

Thứ tư, cần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong quản lý SHTT. Cần tính đến khả năng hợp nhất một số cơ quan quản lý SHTT, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan này.

Phương Anh

Tạp chí Kinh tế và Dự báo 09:41 | 25/03/2022