VIỆN TRƯỞNG NGUYỄN THY NGA TIÊN PHONG CÔNG BỐ BÁO CÁO TỔNG HỢP THUẾ SUẤT TỐI THIỂU TOÀN CẦU |
Chính sách về thuế tối thiểu toàn cầu được yêu cầu áp dụng ngay từ tháng 1/2024. Quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu là một nội dung chính trong Chương trình chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển dịch lợi nhuận (BEPS) do OECD khởi xướng và đã được hơn 140 quốc gia đồng thuận. Đưa ra mức thuế tối thiểu toàn cầu, một trạng thái cân bằng chính sách mới xuất hiện, tất cả các quốc gia đều đặt mức thuế suất tối ưu ở mức thuế suất tối thiểu toàn cầu 15%. Mức thuế tối thiểu toàn cầu tạo ra một mức sàn cho cuộc đua xuống đáy vì các thiên đường có thuế suất thấp hơn mức tối thiểu toàn cầu không hấp dẫn hơn từ góc độ của các công ty đang chuyển đổi lợi nhuận so với các thiên đường có thuế suất chính xác ở mức toàn cầu tối thiểu. Xu hướng toàn cầu này không chỉ đặt ra những yêu cầu mới đối với cộng đồng doanh nghiệp, mà còn đòi hỏi phải có những thích ứng nhanh chóng, kịp thời từ phía các cơ quan chức năng. |
Tại sao lại có mức thuế suất tối thiểu toàn cầu? |
Từ trước đến nay, các quốc gia cạnh tranh mạnh mẽ với nhau để thu hút các doanh nghiệp và nhà đầu tư đến hoạt động kinh tế bằng cách đưa ra nhiều ưu đãi thuế. Tuy nhiên, sau khi các công ty/nhà đầu tư nước ngoài đã tiến hành hoạt động kinh doanh tại quốc gia nước ngoài, họ đã không đóng thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) một cách công bằng, và từ đó tạo nên gánh nặng thuế cho các doanh nghiệp địa phương. Ngày càng có nhiều chính phủ áp dụng chế độ thuế tối thiểu (GMT) như một phương tiện duy trì cơ sở thuế quốc gia. Mục đích của giải pháp này là để ngăn chặn sự xói mòn cơ sở thuế do việc sử dụng quá mức ưu đãi thuế (dưới dạng các khoản tín dụng, khoản khấu trừ, khoản miễn trừ, khoản trợ cấp…). Từ đó, các chính phủ đảm bảo một mức sàn đối với sự đóng góp của các doanh nghiệp vào ngân sách công, kết thúc cuộc đua xuống đáy của các quốc gia thu hút đầu tư nước ngoài bằng chính sách thuế. |
Giải pháp thuế suất tối thiểu đã được áp dụng từ những năm 1960, và được áp dụng theo cách đánh thuế các doanh nghiệp dựa trên nguồn thu nhập được tạo ra từ các hoạt động kinh doanh được thực hiện trong lãnh thổ của họ. Trong những năm 1980, thuế suất doanh nghiệp trung bình toàn cầu là khoảng 40%. Theo dữ liệu từ KPMG, tỷ lệ này đã giảm xuống 29% vào năm 2003. Đến năm 2010, tỷ lệ này giảm xuống dưới 25% và đến năm 2021, tỷ lệ lại giảm xuống còn 23,7%. Thuế suất doanh nghiệp trung bình đã giảm ở mọi khu vực trên thế giới kể từ năm 2003. Châu Á chứng kiến mức giảm lớn nhất, giảm 8,8 điểm % từ năm 2003 đến 2021, tiếp theo là châu Âu (-7,5%) và châu Phi (-4,9%). Các quốc gia châu Âu ghi nhận mức thuế doanh nghiệp trung bình thấp nhất vào năm 2021 (19%), trong khi các quốc gia ở khu vực châu Đại Dương có mức cao nhất là 28,4%. |
Chỉ thị cải cách thuế năm 2023 được công bố vào ngày 16/12/2022 đã làm rõ ràng quy tắc bao gồm thu nhập đối với mức thuế tối thiểu toàn cầu sẽ có hiệu lực cho các năm tài chính bắt đầu vào hoặc sau ngày 1/1/2024. Thuế tối thiểu toàn cầu được thiết kế để có một số tác động tích cực ở các quốc gia bị ảnh hưởng bất lợi bởi sự thay đổi lợi nhuận. Đầu tiên, tăng mức nộp thuế của các công ty chuyển lợi nhuận sang môi trường thuế thấp. Thứ hai, khuyến khích các công ty giảm chuyển lợi nhuận, thúc đẩy hơn nữa doanh thu của chính phủ và hạn chế việc sử dụng lãng phí các nguồn lực cho việc lập kế hoạch thuế. Thứ ba, sẽ giảm bớt những hạn chế về chính sách từ cạnh tranh thuế quốc tế, do đó cho phép các quốc gia đánh thuế lợi nhuận đa quốc gia ở mức cao hơn và hoàn lại nhiều hơn. |
Tỷ lệ thuế của các quốc gia trong bối cảnh áp dụng thuế suất tối thiểu toàn cầu |
Thuế suất doanh nghiệp nhìn chung vẫn ổn định hoặc giảm ở hầu hết các quốc gia vào những năm chưa áp dụng Chỉ thị về thuế suất doanh nghiệp, trong đó 55 quốc gia chứng kiến sự sụt giảm và chỉ 19 quốc gia ghi nhận tỷ lệ cao hơn. Khuôn khổ bao trùm của OECD/G20 về Xói mòn cơ sở và Chia sẻ lợi nhuận (BEPS) 2.0 bao gồm việc phân bổ các quyền đánh thuế mới cho các khu vực pháp lý thị trường (Trụ cột I) và giới thiệu mức thuế tối thiểu toàn cầu (Trụ cột II). Trụ cột II thiết lập mức thuế tối thiểu toàn cầu 15% thông qua việc đưa ra hai quy tắc lồng vào nhau: quy tắc bao gồm thu nhập (IIR) và quy tắc thanh toán dưới mức thuế (UTPR), được gọi chung là Quy tắc chống Xói mòn Cơ sở Toàn cầu (Quy tắc GloBE). |
Vào tháng 12/2022, 136 quốc gia và khu vực tài phán đã nhất trí về việc nhanh chóng thực hiện cải cách lớn đối với hệ thống thuế doanh nghiệp quốc tế. Nói chung, các công ty châu Âu và Hoa Kỳ được cho là tích cực hơn trong việc lập kế hoạch thuế, trong khi các công ty Nhật Bản được cho là miễn cưỡng hơn. Việc đưa ra mức thuế tối thiểu toàn cầu dự kiến sẽ làm tăng gánh nặng thuế đối với ít công ty Nhật Bản hơn so với các công ty châu Âu và Hoa Kỳ. Do đó, về khả năng thu được lợi nhuận sau thuế, khả năng cạnh tranh của các công ty châu Âu và Hoa Kỳ sẽ giảm và khả năng cạnh tranh của các công ty Nhật Bản sẽ tương đối được nâng cao. |
Nền Kinh tế Asean và Việt Nam trước bối cảnh thuế suất tối thiểu toàn cầu |
Không có bằng chứng thực nghiệm nào cho thấy ưu đãi thuế làm tăng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại ASEAN. Hầu hết các ưu đãi thuế TNDN hiện tại ở ASEAN không nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư dài hạn, mà thay vào đó được sử dụng để khỏa lấp cho những vấn đề trong năng lực quản trị và cơ sở hạ tầng, đáp ứng mong muốn ngắn hạn của các nhà đầu tư bằng cách cắt giảm thuế TNDN xuống mức tối thiểu. Bên cạnh đó, ưu đãi thuế thậm chí đã tạo ra môi trường đầu tư không công bằng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong 10 năm qua, thuế suất trung bình thuế TNDN của khu vực đã giảm từ mức trung bình 25,1% năm 2010 xuống còn 21,7% năm 2020, mức thuế suất trung bình thuế TNDN thực nộp giảm 9,4 điểm %. Vì thế nên ASEAN đã trở thành một trong những khu vực có mức thuế TNDN thực nộp sau ưu đãi thuế thấp nhất trên thế giới. |
Tại Việt Nam, thuế TNDN thực nộp đối với các công ty có nguồn vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực sản xuất là 8% trong năm 2016, nhưng với các doanh nghiệp trong nước ở mức 14,5% và thậm chí hơn 16% đối với các doanh nghiệp nhà nước có quy mô vốn lớn. Bảng tổng hợp chi tiết hơn về Chỉ thị và Quy tắc mẫu GloBE của OECD
Nguồn: Báo cáo Đánh giá tác động thuế suất tối thiểu toàn cầu trên các quốc gia và Khuyến nghị chính sách cho Việt Nam, Viện Quản trị Chính sách và Chiến lược phát triển |
Quan điểm của chuyên gia Nguyễn Thy Nga về áp dụng cơ chế ưu đãi bằng tiền mặt tại Việt Nam |
Việc ưu đãi bằng tiền cần được xem xét thấu đáo từ một số góc độ. Trước hết, để áp dụng biện pháp này một cách hợp lý đòi hỏi điều kiện về ngân sách quốc gia. Đây là quan ngại chính của các quốc gia đang phát triển, do vấn đề ngân sách hạn chế và khó khăn trong việc phát sinh chi trả trước. Tuy nhiên, nếu cải cách hệ thống thuế hợp lý để tăng nguồn thu từ thuế tối thiểu toàn cầu, Việt Nam sẽ có thể tận dụng chính nguồn thu này để thêm ngân sách hỗ trợ cho cơ chế ưu đãi bằng tiền. Một vấn đề khác được đặt ra là việc ban hành cơ chế ưu đãi mới có thể tăng thêm các thủ tục hành chính về mặt quản lý, ví dụ như các thủ tục xin áp dụng ưu đãi, thủ tục xét duyệt, quản lý hành chính, cũng như hậu kiểm để đảm bảo cơ chế ưu đãi được thực hiện hợp lý, đúng mục tiêu, không phát sinh thất thoát. Ngoài ra, về mặt kỹ thuật, cơ chế ưu đãi bằng tiền cũng cần được nghiên cứu kỹ càng khi đối chiếu với các quy định của OECD. Ví dụ, theo quy định của OECD, một trong các điều kiện để áp dụng cơ chế thuế suất nội địa đạt tiêu chuẩn (QDTMTT - Qualified Domestic Minimum Top-up Tax – QDMTT), nghĩa là quốc gia áp dụng phải thực hiện và quản lý theo cách phù hợp với quy định theo quy tắc Trụ cột II của OECD và không cung cấp bất kỳ lợi ích nào liên quan đến các quy tắc đó. Theo đó, việc ban hành chính sách ưu đãi bằng tiền có làm ảnh hưởng đến việc áp dụng QDMTT (nếu Việt Nam lựa chọn phương án này) hay không, cần được cân nhắc cẩn trọng. Ngoài ra, Việt Nam cũng cần tham khảo và nghiên cứu quy định của OECD về tác động cụ thể của ưu đãi bằng tiền nói riêng và các chính sách thuế khác tác động lên việc tính toán thuế suất hiệu quả của doanh nghiệp theo công thức của OECD sẽ như thế nào, để phù hợp chính sách quốc gia, khu vực và toàn cầu. |
Trên cơ sở chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 31/2021/QH15 của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 - 2025, và hưởng ứng Quyết định số 407/QĐ-TTg, ngày 30/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án "Tổ chức truyền thông chính sách có tác động lớn đến xã hội trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật giai đoạn 2022 - 2027", Chuyên gia Nguyễn Thy Nga, Viện trưởng Viện Quản trị Chính sách, đồng chủ tịch Hội đồng nghiên cứu chính sách Hội doanh nhân trẻ Việt Nam đã công bố sáng kiến phát triển mạng lưới liên kết doanh nhân - khoa học - chính sách, kết nối sáng tạo, hội tụ nguồn lực để cùng nghiên cứu và truyền thông dự thảo chính sách, phát triển hệ sinh thái nghiên cứu và truyền thông chính sách trong sáng kiến chiến lược phát triển Việt Nam và cũng khuyến khích công nghệ trong quá trình thu thập cơ sở dữ liệu nghiên cứu và truyền thông chính sách, nhất là với những đề án chính sách có tác động xã hội lớn, trong đó có chính sách về thuế suất tối thiểu toàn cầu./.
|
Nguyễn Mỹ Quyên |