eMagazine
Việt Nam chưa có các cụm liên kết ngành theo đúng nghĩa!

06:59 | 07/09/2022

“Chưa có các cụm liên kết ngành theo đúng cách hiểu của các nước đang phát triển. Các mối liên kết giữa các tác nhân trong cụm liên kết ngành chưa đủ mạnh. Sự kết nối giữa các tác nhân còn yếu, các kết nối mang tính tự phát trong phân chia tham gia các khâu trong chuỗi giá trị”, TS. Đặng Đức Anh nói.
Việt Nam chưa có các cụm liên kết ngành theo đúng nghĩa

TS. Đặng Đức Anh, Phó Viện trưởng CIEM cho biết, Việt Nam chưa có các cụm liên kết ngành theo đúng cách hiểu của các nước đang phát triển.

Việt Nam chưa có các cụm liên kết ngành theo đúng nghĩa!

“Chúng ta chưa có các cụm liên kết ngành theo đúng cách hiểu của các nước đang phát triển. Các mối liên kết giữa các tác nhân trong cụm liên kết ngành chưa đủ mạnh. Sự kết nối giữa các tác nhân còn yếu, các kết nối mang tính tự phát trong phân chia tham gia các khâu trong chuỗi giá trị”, TS. Đặng Đức Anh chỉ rõ hạn chế này tại Hội thảo “Cơ cấu lại ngành kinh tế theo hướng hình thành các cụm liên kết ngành và tăng cường sức chống chịu của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập: Nghiên cứu một số trường hợp tại Việt Nam” diễn ra ngày 6/9.

Hội thảo do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) phối hợp với Chương trình Australia Hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam (Aus4Reform) tổ chức.

cơ cấu lại ngành kinh tế diễn ra chậm

Ông Đặng Đức Anh cho biết, một trong những nội dung quan trọng của quá trình cơ cấu lại nền kinh tế là “Cơ cấu lại ngành và vùng kinh tế theo hướng tăng cường liên kết, hình thành các cụm liên kết, ngành, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tăng cường sức chống chịu gắn với đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế” với mục tiêu chuyển dần từ tăng trưởng dựa trên tăng số lượng đầu vào của sản xuất sang tăng trưởng dựa trên năng suất, chất lượng lao động, ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Thực tiễn giai đoạn 2016–2020, cơ cấu lại ngành kinh tế đã đạt được nhiều kết quả quan trọng: Liên kết ngành, vùng được thúc đẩy; cơ cấu ngành dịch chuyển tích cực, tăng tỷ trọng đóng góp của các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; sản xuất nông nghiệp được tập trung vào các ngành có giá trị gia tăng cao hơn và có thị trường xuất khẩu đa dạng; một số ngành dịch vụ được hiện đại hóa, hình thành các sản phẩm dịch vụ chất lượng cao.

Lãnh đạo CIEM khẳng định, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn một số tồn tại. Đó là cơ cấu lại ngành kinh tế theo hướng nâng cấp chuỗi giá trị, ứng dụng tiến bộ công nghệ, đổi mới sáng tạo diễn ra chậm, chưa có nhiều kết quả: cơ cấu ngành kinh tế kém năng động; không có sự thay đổi đáng kể về cơ cấu ngành kinh tế, về cơ cấu sản phẩm xuất khẩu, nhập khẩu, về cơ cấu thị trường xuất khẩu…; ít hình thành các ngành nghề mới, sản phẩm mới (đặc biệt trong xu thế các mạng công nghiệp 4.0), do đó chưa đóng góp đáng kể vào cơ cấu lại các ngành.

TS. Đặng Đức Anh chỉ rõ, chúng ta chưa có các cụm liên kết ngành theo đúng cách hiểu của các nước đang phát triển. Các mối liên kết giữa các tác nhân trong cụm liên kết ngành chưa đủ mạnh. Sự kết nối giữa các tác nhân còn yếu, các kết nối mang tính tự phát trong phân chia tham gia các khâu trong chuỗi giá trị.

Việt Nam chưa có các cụm liên kết ngành theo đúng nghĩa
Toàn cảnh hội thảo
"

“Đặc biệt, qua bối cảnh Covid-19 càng làm hạn chế về tính độc lập, tự chủ của các ngành kinh tế, tăng tính dễ tổn thương do phụ thuộc vào bên ngoài”, ông Đức Anh khẳng định.

Thay mặt nhóm nghiên cứu CIEM, ThS. Nguyễn Văn Tùng, Phó Trưởng ban nghiên cứu kinh tế ngành và lĩnh vực – CIEM cho biết thêm các hạn chế trong quá trình cơ cấu lại ngành kinh tế theo hướng tăng cường tính độc lập, tự chủ, nâng cao sức chống chịu của nền kinh tế.

Đó là tăng trưởng kinh tế, các ngành còn phụ thuộc vào bên ngoài về vốn, công nghệ và thị trường, do đó tiềm ẩn rủi ro vì chịu tác động bởi các yếu tố kinh tế, chính trị bên ngoài.

"Việt Nam vẫn chịu thâm hụt thương mại lớn với một số đối tác như Trung Quốc, Hàn Quốc… Mức thâm hụt dù đã giảm trong thời gian gần đây, tuy nhiên đà giảm chưa có tính bền vững", thay mặt nhóm nghiên cứu, ông Tùng chỉ rõ.

Chưa coi trọng chuyển giao công nghệ từ các dự án đầu tư nước ngoài, dự án có vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA), vốn vay ưu đãi. Việc thiếu ý thức và kế hoạch cụ thể tiếp nhận, làm chủ công nghệ, dẫn đến sự phụ thuộc vào nước ngoài trong quá trình vận hành, sử dụng dự án.

Điều đáng lưu ý là việc tham gia sâu hơn vào khâu gia công–lắp ráp trong chuỗi giá trị toàn cầu, trong khi khả năng tự chủ và tính bền vững trong sản xuất và xuất khẩu thấp, điều này có thể dẫn đến tiềm ẩn nhiều rủi ro. Công nghiệp phụ trợ, sản xuất nguyên liệu trong nước kém phát triển, phần lớn máy móc, thiết bị, nguyên liệu, phụ tùng đều phải nhập khẩu.

FDI vào Việt Nam chủ yếu khai thác lao động chi phí thấp và các ưu đãi thuế, đất đai; chưa tạo được hiệu ứng lan tỏa phát triển năng lực sản xuất trong nước.

Việt Nam chưa có các cụm liên kết ngành theo đúng nghĩa

ThS. Nguyễn Văn Tùng, Phó Trưởng ban nghiên cứu kinh tế ngành và lĩnh vực – CIEM chỉ rõ, việc cơ cấu lại ngành kinh tế theo hướng tăng cường tính độc lập, tự chủ, nâng cao sức chống chịu của nền kinh tế còn nhiều hạn chế

“Dịch bệnh Covid-19 đã ảnh hưởng toàn diện đến tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội của Việt Nam, làm đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu của đại dịch Covid-19, làm bộc lộ những điểm yếu của cơ cấu kinh tế Việt Nam cần được tập trung xử lý”, ông Tùng nói và chỉ rõ, đó là sự phụ thuộc vào thị trường xuất, nhập khẩu của một số nước trong một số mặt hàng, sự yếu kém của công nghiệp hỗ trợ trong nước, tính chất phi chính thức và mức độ dễ bị tổn thương của khu vực kinh tế trong nước.

Chưa có định nghĩa đầy đủ về Cụm liên kết ngành

Chỉ rõ những hạn chế trong nhóm chính sách thúc đẩy sự phát triển của cụm liên kết ngành, ông Tùng cho biết, hiện nay chưa có định nghĩa đầy đủ về cụm liên kết ngành, do đó cách hiểu, nhận thức về CLKN chưa thống nhất, đối tượng quản lý chưa rõ ràng. Còn thiếu một số các quy định dẫn đến khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện chính sách phát triển cụm liên kết ngành.

"Luật Hỗ trợ DNNVV dù quy định các chính sách hỗ trợ tham gia cụm liên kết ngành, nhưng chưa có văn bản quy định về cách thức/tiêu chí xác định cụm liên kết ngành", ông Tùng nói.

Việc phân công cơ quan chịu trách nhiệm về quản lý CLKN theo từng khía cạnh chưa rõ và chưa đủ. Điều này dẫn đến tình trạng mặc dù có chủ trương phát triển cụm liên kết ngành nhưng quá trình thực hiện còn vướng mắc.

Các chính sách thúc đẩy phát triển cụm liên kết ngành còn chưa hoàn thiện. Thiếu các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp lớn, đầu đàn tạo dựng các liên kết cũng như hỗ trợ các liên kết giữa doanh nghiệp với các tổ chức R&D.

Trong nhóm chính sách thu hút đầu tư, chuyển giao công nghệ và tăng cường mối liên kết giữa khu vực FDI và nội địa, ông Tùng cho hay, Các chính sách thu hút FDI mới tập trung vào số lượng mà chưa chú trọng tới chất lượng, cũng như tính lan tỏa, liên kết của các doanh nghiệp FDI đối với hoạt động sản xuất trong nước. Do đó, mục tiêu thu hút công nghệ cao, công nghệ nguồn và chuyển giao công nghệ chưa đạt hiệu quả như mong muốn.

Điều đáng buồn là hiệu ứng lan tỏa, tính liên kết của khu vực FDI đối với khu vực trong nước chưa cao. Thiếu các chính sách khuyến khích để các doanh nghiệp FDI chuyển giao các cấu phần gia công, cung cấp linh kiện cho các doanh nghiệp nội địa.

“Việt Nam đã thu hút được các doanh nghiệp FDI chế xuất lớn, đóng góp tích cực vào tăng trưởng GDP cũng như xuất khẩu, tuy nhiên chưa có các chính sách cụ thể nhằm tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp chế xuất có thể bán hàng vào thị trường nội địa, tìm kiếm cơ hội tại thị trường trong nước, do đó chưa tận dụng được nguồn lực lớn của các doanh nghiệp FDI để tạo hiệu ứng lan tỏa, phát triển chuỗi cung ứng nội địa”, ông Tùng cho hay.

Trong nhóm chính sách về hội nhập và thương mại quốc tế, nhóm nghiên cứu cũng cho biết, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và đổi mới ở trong nước, nhất là đổi mới, hoàn thiện thể chế, trước hết là hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa được thực hiện một cách đồng bộ, chưa gắn kết chặt chẽ với quá trình nâng cao năng lực cạnh tranh.

Hội nhập kinh tế quốc tế chưa được phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với hội nhập trong các lĩnh vực khác, trong khi sức ép cạnh tranh gay gắt hơn trên cả ba cấp độ sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia. Các sản phẩm và doanh nghiệp nội địa phải cạnh tranh với sản phẩm và doanh nghiệp nước ngoài trên thị trường quốc tế và nội địa. Chính phủ phải cạnh tranh với chính phủ các nước trong cải thiện môi trường thu hút đầu tư, nguồn nhân lực…

Còn trong nhóm chính sách về phát triển công nghiệp hỗ trợ, ông Tùng cũng chỉ rõ, các quy định hiện hành của pháp luật chưa được thực thi hiệu quả để tạo ra các cơ chế, chính sách mạnh mẽ thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ phát triển. Chính sách thu hút các doanh nghiệp FDI chưa gắn với các ràng buộc về trách nhiệm phát triển hệ thống nhà cung ứng nội địa tại Việt Nam.

"Các chính sách phát triển các ngành công nghiệp chính như ô tô, cơ khí, điện tử, dệt may… nhằm tạo thị trường cho công nghiệp hỗ trợ cũng chưa đạt được những kết quả như mong muốn, dẫn đến hạn chế trong việc phát triển chuỗi sản xuất trong nước và quốc tế", ông Tùng phân tích.

Một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ công nghiệp hỗ trợ chịu sự điều chỉnh của các Luật chuyên ngành (như Luật Đất đai, Luật các tổ chức tín dụng, Luật Đấu thầu…) dẫn đến chồng chéo trong tổ chức thực hiện, còn gặp vướng mắc.

sự hình thành của các cụm liên kết ngành phần lớn là tự phát

Trong Báo cáo nghiên cứu của CIEM có nhắc đến Thaco và Khu phức hợp cơ khí ô tô Chu Lai - Trường Hải tại Khu kinh tế mở Chu Lai như ví dụ hiếm hoi về cụm liên kết trong lĩnh vực công nghiệp đã được hình thành trong giai đoạn vừa qua.Trong mô hình này, Thaco ở vai nhà sản xuất trong Khu liên hợp sản xuất và lắp ráp ôtô Chu Lai–Trường Hải, từ đó thu hút có chủ đích các nhà máy sản xuất linh kiện phụ tùng, tổ hợp cơ khí, hệ thống cảng biển và các đơn vị giao nhận - vận chuyển, các công ty đầu tư - xây dựng, nông nghiệp và các đơn vị hỗ trợ…

Theo ông Tùng, đây chính là con đường hình thành của cụm liên kết các doanh nghiệp lắp ráp cơ điện tử lớn, như: Canon, Panasonic với các doanh nghiệp cung cấp phụ tùng linh kiện cũng đến từ Nhật Bản như Nissei, Santomas, Yasufuku... ở KCN Thăng Long (Nội Bài, Hà Nội), KCN Nomura Hải Phòng, KCN Tràng Duệ với công ty đầu tàu là Công ty TNHH SL Electronics Việt Nam, doanh nghiệp công ty 100% vốn đầu tư Hàn Quốc, chuyên sản xuất linh phụ kiện điện tử cho máy giặt và tủ lạnh, máy hút bụi, xe có động cơ cung cấp cho công ty LG Electronics và xuất khẩu đi các nước.

Ngoài ra, một số cụm liên kết ngành công nghiệp quy mô nhỏ hơn tại tỉnh Nam Định như cụm dệt, sợi và may mặc tại KCN Bảo Minh; chế biến lương thực, thực phẩm, sản xuất máy nông nghiệp tại CCN Xuân Tiến (Xuân Trường); sản xuất cấu kiện, chi tiết, thiết bị phục vụ ngành công nghiệp, cầu đường, xây dựng, khai khoáng tại CCN Đồng Côi (Nam Trực); đóng tàu tại CCN cơ khí đóng tàu thị trấn Xuân Trường (Xuân Trường)...

Song, ông Tùng nhấn mạnh, những kết quả đã thực hiện được rất nhỏ so với chủ trương.

"Đáng nói là sự hình thành của các cụm liên kết ngành phần lớn là tự phát, không có sự can thiệp trực tiếp có chủ ý ban đầu của Chính phủ và các chính quyền địa phương bằng các quyết định thành lập", ông Tùng thẳng thắn chỉ rõ, "việc hình thành các cụm này được chủ động dẫn dắt bởi các nhà đầu tư nước ngoài mà không phải do kết quả của chính sách thúc đẩy cụm liên kết ngành”.

Cũng phải thấy rằng, các nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư vào các KCN, KKT chủ yếu là nhằm khai thác các nguồn sản xuất đầu vào (lao động, đất đai…) giá rẻ và ưu đãi về thuế, tránh thuế suất cao tại quốc gia nơi đặt trụ sở, nên tỷ trọng nguyên vật liệu, dịch vụ nhập khẩu trong giá thành sản xuất tương đối cao.

Việt Nam chưa có các cụm liên kết ngành theo đúng nghĩa
Bản đồ cụm liên kết ngành công nghiệp do CIEM đang xây dựng.

“Do đó, mối liên kết kinh tế giữa các KCN, KKT với nền kinh tế địa phương nơi đặt KCN, KKT là chưa được phát huy mạnh. Điều này làm giảm tác động lan tỏa của KCN, KKT tới phát triển kinh tế- xã hội của địa phương”, ông Tùng phân tích.

cần lựa chọn phát triển thí điểm một số mô hình cụm liên kết ngành

Nguyên Viện trưởng CIEM, PGS, TS. Lê Xuân Bá khẳng định, giai đoạn vừa qua việc liên kết các vùng kinh tế ở Việt Nam chưa tốt, sức chống chịu còn hạn chế, do đó, việc cơ cấu lại ngành kinh tế theo hướng hình thành cụm liên kết ngành để tăng cường sức chống chịu của nền kinh tế là hết sức cần thiết.

“Trong điều kiện mới như hiện nay, để tăng cường việc liên kết kinh tế theo ngành, vùng và nâng cao sức chống chịu của nền kinh tế cần điều tiết dòng chảy nguồn lực kinh tế cho phù hợp và hiệu quả. Lựa chọn phát triển thí điểm một số mô hình cụm liên kết ngành trong quá trình cơ cấu lại nền kinh tế", vị chuyên gia này đề xuất.

Cùng với đó, theo PGS, TS. Lê Xuân Bá, cần tìm kiếm, mở rộng thị trường cho phát triển cụm liên kết ngành kinh tế… Tổ chức lại sản xuất theo chuỗi giá trị, phát triển các cụm liên kết - chế biến - tiêu thụ nông sản tại các địa phương, vùng miền có sản lượng nông sản lớn... Đặc biệt, cần chỉ rõ đâu là nguyên nhân khiến việc liên kết kinh tế theo ngành, vùng lỏng lẻo.

Một giải pháp quan trọng khác được các chuyên gia tại Hội thảo đề cập, đó là tăng cường nâng cao nhận thức về vai trò của liên kết ngành trong cơ cấu ngành kinh tế.

“Tôi vừa có dịp đi làm việc với nhiều địa phương liên quan đến xây dựng quy hoạch phát triển, tư duy về liên kết ngành, cụm liên kết ngành rất hạn chế, nên sẽ ảnh hưởng đến hoạch định chính sách”, chuyên gia kinh tế độc lập, bà Nguyễn Thị Xuân Thúy chia sẻ quan điểm.

Bà Thúy đề nghị, cần thống nhất cách hiểu về cụm liên kết ngành với khái niệm của thế giới, trong đó đảm bảo sự quần tụ về địa lý, sự liên kết theo chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng và cần một hệ sinh thái gồm cơ sở nghiên cứu, đào tạo…

"Thaco đang dẫn đầu cụm liên kết ngành ở Chu Lai - Trường Hải, nhưng cần chính sách để thúc đẩy hình thành các trung tâm nghiên cứu và phát triển, cơ sở đào tạo nguồn nhân lực..., có như vậy mới thực sự là một cụm liên kết theo đúng nghĩa", bà Thúy nêu ví dụ.

Tại Hội thảo, các chuyên gia đề xuất xây dựng bản đồ cụm liên kết ngành ở Việt Nam, để làm cơ sở cho các bộ, ngành và địa phương phối hợp xây dựng và thực thi chính sách.

Nguyên Viện trưởng CIEM, PGS, TS. Lê Xuân Bá khẳng định, giai đoạn vừa qua việc liên kết các vùng kinh tế ở Việt Nam chưa tốt, sức chống chịu còn hạn chế, do đó, việc cơ cấu lại ngành kinh tế theo hướng hình thành cụm liên kết ngành để tăng cường sức chống chịu của nền kinh tế là hết sức cần thiết.

“Trong điều kiện mới như hiện nay, để tăng cường việc liên kết kinh tế theo ngành, vùng và nâng cao sức chống chịu của nền kinh tế cần điều tiết dòng chảy nguồn lực kinh tế cho phù hợp và hiệu quả. Lựa chọn phát triển thí điểm một số mô hình cụm liên kết ngành trong quá trình cơ cấu lại nền kinh tế", vị chuyên gia này đề xuất.

Phương Anh

Tạp chí Kinh tế và Dự báo 06:59 | 07/09/2022