eMagazine
Xây dựng Đông Nam Bộ trở thành vùng phát triển năng động, là động lực tăng trưởng lớn nhất cả nước

18:12 | 16/08/2023

Khung phát triển có tính chất quan trọng, có tính chất định hướng, dẫn dắt quyết định sự đóng góp của vùng Đông Nam Bộ đối với đất nước. Vì thế, phải làm thế nào để tạo ra được xung lực, cú hích để vùng vừa phát triển mạnh mẽ, lại đảm bảo được sự hài hòa, phát triển bền vững.

Xây dựng Đông Nam Bộ trở thành vùng phát triển năng động, là động lực tăng trưởng lớn nhất cả nước

Sáng nay, ngày 16/8, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đã chủ trì cuộc họp Báo cáo về Khung định hướng Quy hoạch vùng Đông Nam Bộ thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Hình thành khung định hướng phát triển vùng Đông Nam Bộ thời kỳ 2021-2030

5 hạn chế trong phát triển của vùng Đông Nam Bộ

Vùng Đông Nam Bộ gồm 6 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, có diện tích 23.551,5 km2, là vùng có diện tích nhỏ thứ hai cả nước (chiếm 7,1%); dân số năm 2020 là 18.342,9 nghìn người (chiếm 18,8% dân số cả nước). Năm 2020, quy mô GRDP của vùng Đông Nam Bộ đạt 2,58 triệu tỷ đồng, gấp 2,6 lần năm 2010, và 1,4 lần năm 2015; đóng góp 32% GDP cả nước.

Đến năm 2022, GRDP của Vùng đạt 2,95 triệu tỷ đồng, chiếm 31,04% GDP cả nước, đứng thứ 1/6 vùng (vùng Đồng bằng sông Hồng là 30,4%; Trung du miền núi phía Bắc là 8,62%; Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung là 15,09%, Tây Nguyên là 13,02%, Đồng bằng sông Cửu Long là 12%).

GRDP bình quân đầu người của Vùng năm 2020 đạt 140,5 triệu đồng/người, cao nhất 6 vùng, gấp 1,7 lần trung bình cả nước.

Tuy nhiên, Vùng đang gặp những khó khăn. Theo đơn vị tư vấn quy hoạch là Viện Chiến lược phát triển, Đông Nam Bộ đang chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, xảy ra úng, nhất là khu vực TP. Hồ Chí Minh, một phần do triều cường; rủi ro xâm nhập mặn tăng cao, hạn hán khắc nghiệt, số ngày khô liên tục tăng lên và thay đổi nguồn nước ở thượng lưu; khoáng sản quy mô lớn có khả năng khai thác cho sản xuất công nghiệp không nhiều.

Chất lượng lao động thấp hơn vùng Đồng bằng sông Hồng, tỷ lệ lao động qua đào tạo của Vùng năm 2020 là 29,5%, năm 2022 đạt 28,2% (vùng Đồng bằng sông Hồng năm 2020 là 32,6%, năm 2022 là 37,1%).

Tỷ lệ thất nghiệp của Vùng năm 2020 là 3,23%, năm 2022 là 2,88%, cao hơn trung bình cả nước (cả nước năm 2020 là 2,48%, năm 2022 là 2,34%). Lao động di cư đến Vùng lớn, tỷ lệ lao động di cư có trình độ cao không nhiều. Tỷ lệ nhập cư thuần của Vùng giai đoạn 2011-2022 là 11,2%; trong đó, Bình Dương là 38,4‰, TP. Hồ Chí Minh 9,5‰, Đồng Nai 8,7‰ (thuộc nhóm 5 địa phương có tỷ lệ nhập cư thuần cao nhất cả nước.

Diện tích đất bằng chưa sử dụng của Vùng còn rất ít so với các vùng khác (2.270 ha so với 23 nghìn ha của vùng Trung du và miền núi phía Bắc và 43 nghìn ha của vùng Đồng bằng sông Hồng).

Tỷ lệ che phủ rừng là 19,4% (năm 2021), thấp hơn nhiều so với trung bình cả nước (42%), chỉ cao hơn vùng Đồng bằng sông Cửu Long (5,8%).

Hình thành khung định hướng phát triển vùng Đông Nam Bộ thời kỳ 2021-2030
TS. Trần Hồng Quang- Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển trình bày một số nội dung cơ bản của khung định hướng phát triển và tổ chức không gian vùng Đông Nam Bộ thời kỳ 2021-2023, tầm nhìn đến năm 2050. Ảnh: Đức Trung
Hình thành khung định hướng phát triển vùng Đông Nam Bộ thời kỳ 2021-2030
Hình thành khung định hướng phát triển vùng Đông Nam Bộ thời kỳ 2021-2030
Các chuyên gia phát biểu góp ý cho Báo cáo. Ảnh: Đức Trung

Thay mặt cơ quan tư vấn, TS. Trần Hồng Quang, Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển chỉ ra 5 hạn chế trong phát triển của vùng Đông Nam Bộ.

(1) Phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế, tăng trưởng kinh tế có xu hướng chậm.

(2) Mạng lưới kết cấu hạ tầng cấp vùng, liên vùng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, thường xuyên xảy ra tắc nghẽn giao thông. Mạng lưới kết cấu hạ tầng cấp vùng, liên vùng, nhất là hạ tầng giao thông kết nối nội vùng và liên vùng còn thiếu, chưa đồng bộ. Tình trạng tắc nghẽn giao thông tại TP. Hồ Chí Minh và một số địa bàn trong Vùng chậm được khắc phục và ngày càng nghiêm trọng.

3) Công nghiệp phát triển thiếu bền vững, chủ yếu là gia công, lắp ráp, giá trị gia tăng thấp. Công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm. Phân bố khu chế xuất, khu công nghiệp chưa hợp lý (khu vực trung tâm vẫn tập trung các KCN cần nhiều lao động, giá trị gia tăng thấp). Chưa làm chủ được công nghệ cao, công nghệ lõi, công nghệ nguồn trong những ngành chủ lực.

(4) Hạ tầng xã hội quá tải, chưa đáp ứng yêu cầu. Tình trạng quá tải ở các trường học, cơ sở đào tạo, giáo dục nghề nghiệp, cơ sở khám, chữa bệnh công lập chậm được khắc phục. Phát triển nhà ở xã hội, nhất là nhà ở cho công nhân làm việc tại các KCN, KCX chưa đáp ứng yêu cầu.

5) Tình trạng ô nhiễm nguồn nước, không khí, rác thải chậm được cải thiện. Tình trạng ô nhiễm môi trường, ngập lụt nghiêm trọng, nhất là tại TP. Hồ Chí Minh chậm được khắc phục và ngày càng nghiêm trọng.

Hình thành khung định hướng phát triển vùng Đông Nam Bộ thời kỳ 2021-2030

Về khung định hướng phát triển và tổ chức không gian vùng Đông Nam Bộ thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, TS. Trần Hồng Quang cho biết, mục tiêu tổng quát là xây dựng Đông Nam Bộ trở thành vùng phát triển năng động, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, động lực tăng trưởng lớn nhất cả nước; trung tâm khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, công nghiệp công nghệ cao, logistics và trung tâm tài chính quốc tế có tính cạnh tranh cao trong khu vực. Đi đầu trong đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển đổi số, xây dựng chính quyền số, kinh tế số, xã hội số. Phát triển nhanh hệ thống đô thị thông minh và hiện đại. Cơ bản hoàn thành hệ thống giao thông kết nối nội vùng, liên vùng và khu vực; đầu mối giao thương, hội nhập khu vực và thế giới. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội, giáo dục - đào tạo, y tế phát triển đứng đầu cả nước. Đời sống vật chất, tinh thần của người dân được cải thiện rõ nét và dẫn đầu cả nước. Tình trạng ô nhiễm môi trường, tắc nghẽn giao thông và ngập úng cơ bản được giải quyết. Quốc phòng, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm vững chắc.

Tổ chức không gian phát triển Vùng theo 3 tiểu vùng. Trong đó, tiểu vùng trung tâm (gồm TP. Hồ Chí Minh, khu vực phía Nam tỉnh Bình Dương và Tây Nam tỉnh Đồng Nai): Dịch vụ chất lượng cao, dịch vụ tài chính quốc tế, giáo dục - đào tạo, y tế, công nghiệp công nghệ cao và chuyên sâu, đầu mối giao thương quốc tế.

Tiểu vùng ven biển (gồm khu vực Cần Giờ của TP. Hồ Chí Minh và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu): Kinh tế biển: Cảng biển, logistics, dịch vụ hậu cần cảng biển, dịch vụ bảo đảm an toàn hàng hải; công nghiệp khai thác, chế biến dầu khí, hoá dầu; du lịch biển, đảo; khai thác, nuôi trồng và chế biến thuỷ sản. Hình thành khu thương mại tự do tại khu vực Cái Mép Hạ. Phát triển tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thành trung tâm kinh tế biển quốc gia, TP. Vũng Tàu thành trung tâm du lịch chất lượng cao đẳng cấp quốc tế.

Tiểu vùng phía Bắc (gồm Tây Ninh, Bình Phước và khu vực phía Bắc của Đồng Nai, Bình Dương): Kinh tế cửa khẩu, kho vận, công nghiệp chế biến nông, lâm sản; khu vực mở rộng không gian phát triển công nghiệp của vùng; trồng cây công nghiệp; bảo vệ nguồn nước, hệ sinh thái rừng và đa dạng sinh học.

Hình thành khung định hướng phát triển vùng Đông Nam Bộ thời kỳ 2021-2030

Các vùng động lực gồm:

(i) Vùng động lực TP. Hồ Chí Minh - Bình Dương - Đồng Nai - Bà Rịa-Vũng Tàu (Vùng động lực quốc gia) bao gồm TP. Hồ Chí Minh và các địa bàn cấp huyện dọc theo Quốc lộ 22, 13, 1, 51 qua các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, trong đó TP. Hồ Chí Minh là cực tăng trưởng.

(ii) Các khu kinh tế, khu thương mại tự do, đô thị đặc thù... Nâng cao hiệu quả hoạt động các khu kinh tế cửa khẩu tại Tây Ninh, Bình Phước.

(iii) Trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia, vùng. Khu công nghệ cao; các khu công nghệ thông tin, công nghệ số; Trung tâm công nghệ sinh học quốc gia TP. Hồ Chí Minh…

Đơn vị tư vấn cũng đề xuất kịch bản tăng trưởng thời kỳ 2021-2030. Theo đó, ở Kịch bản 1 - Kịch bản thấp có tốc độ tăng trưởng GRDP dự báo đạt bình quân 4,92%/năm trong giai đoạn 2021 - 2025; đạt bình quân 7,18%/năm trong giai đoạn 2026 - 2030. Tính chung cả giai đoạn 2021 - 2030 đạt bình quân 6,04%/năm. Giai đoạn 2031-2050, tốc độ tăng trưởng dự kiến đạt khoảng 6,85%/năm.

Kịch bản 2 - Kịch bản trung bình, tốc độ tăng trưởng GRDP dự báo đạt bình quân 5,48%/năm trong giai đoạn 2021 - 2025; đạt bình quân 8,66%/năm trong giai đoạn 2026 - 2030. Tính chung cả giai đoạn 2021 - 2030 đạt bình quân 7,06%/năm. Giai đoạn 2031-2050, tốc độ tăng trưởng dự kiến đạt khoảng 7,2%/năm.

Kịch bản 3 - Kịch bản phấn đấu, tốc độ tăng trưởng GRDP dự báo đạt bình quân 5,97%/năm trong giai đoạn 2021 - 2025 (trong đó ba năm 2021-2023: 3,88%/năm; hai năm 2024-2025: 9,18%/năm); đạt bình quân 10,2%/năm trong giai đoạn 2026 - 2030. Tính chung cả giai đoạn 2021 - 2030 đạt bình quân 8,07%/năm. Giai đoạn 2031-2050, tốc độ tăng trưởng dự kiến đạt khoảng 7,6%/năm.

Phải đột phá hơn nữa về tư duy, cải cách thể chế để tạo động lực mới cho vùng Đông Nam Bộ

Nhận định về các kịch bản tăng trưởng của Vùng trong thời kỳ quy hoạch, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho rằng, "3 kịch bản vẫn an toàn quá". Bộ trưởng cho rằng, nếu đặt ra các kịch bản, định hướng an toàn quá, thì không thể tạo ra những sự đột phá.

TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương chỉ rõ, Đông Nam Bộ là vùng có nhiều nguồn lực, nhưng lại không phát huy được nguồn lực.

"Vùng đang tắc trong mô hình phát triển cũ", vị chuyên gia này nói và chỉ rõ hiện trạng "3 không" của vùng, đó là "Không áp lực, Không động lực và Không nguồn lực". Ông chỉ rõ, hiện nay, Vùng thiếu liên kết, các tỉnh chia rẽ với nhau; chưa hình thành không gian phát triển vùng.

Ông cũng chỉ ra các thách thức trong phát triển của Đông Nam Bộ. Đó là không bắt nhịp, hòa nhịp với xu thế phát triển. Không chuyển đổi, không thay đổi mô hình phát triển. "Thách thức không phải không đủ vốn, mà không đủ cơ chế, chính sách huy động, sử dụng, phân bổ vốn hợp lý", ông Cung nói.

Về 3 kịch bản tăng trưởng, theo vị chuyên gia này, việc chốt kịch bản phù hợp với Nghị quyết số 24-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội vùng Đông Nam Bộ là "hiền quá, không chạm tới cái căn bản nhất". Cho rằng, cái tắc nhất là tư duy và thể chế, trong khi xây dựng kịch bản lại chưa dựa trên cải cách thể chế.

"Để đi lên thì cần cái gì? Cần mở thị trường, thị trường nhiều hơn, các loại thị trường phải xuất hiện, phải xuất hiện đúng bản chất của nó. Đầu tiên là thể chế, thứ hai là kết nối vùng. Vùng không thay đổi thể chế, không thể thu hút được FDI có chất lượng, không thể thu hút hút được nguồn lực, không thể biến TP. Hồ Chí Minh thành trung tâm tài chính quốc tế được", ông Cung thẳng thắn.

Ông đề xuất phải thay đổi thể chế, cùng với đó là phải nâng cao năng lực của bộ máy hành chính. Ngoài ra, cần chuyển công năng của các khu công nghiệp không còn phù hợp. Ông chỉ ra 3 việc cần làm: (1) Tạo không gian vùng liên vùng cho quá trình chuyển dịch, kết nối hạ tầng; (2) Quan trọng nhất là xây dựng một thể chế kinh tế thị trường để khu vực tư nhân, doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi; (3) Thay đổi năng lực sản xuất, tạo năng lực cạnh tranh tốt hơn.

Hình thành khung định hướng phát triển vùng Đông Nam Bộ thời kỳ 2021-2030

TS. Nguyễn Bá Ân, nguyên Tổng thư ký Hội đồng Quốc gia về Phát triển bền vững và Nâng cao năng lực cạnh tranh nêu quan điểm, quy hoạch vùng Đông Nam Bộ phải làm rõ vì sao tăng trưởng kinh tế của Vùng chậm lại, đạt thấp hơn trung bình cả nước; đóng góp vào tổng thu ngân sách nhà nước giảm, tốc độ tăng năng suất lao động thấp; mạng lưới kết cấu hạ tầng cấp vùng, liên vùng, nhất là hạ tầng giao thông kết nối nội vùng và liên vùng còn thiếu, yếu, chưa đồng bộ, ảnh hưởng đến sự phát triển và sức lan tỏa của Vùng; một số công trình trọng điểm chậm tiến độ; tình trạng tắc nghẽn giao thông, ngập úng ngày càng nghiêm trọng tại TP. Hồ Chí Minh…

Đồng ý với quan điểm của TS. Nguyễn Đình Cung, ông Ân cho rằng, nên xác định rõ kịch bản tổ chức không gian; yêu cầu đột phá về thể chế chính sách để thu hút đầu tư, sử dụng hiệu quả nguồn lực; nhu cầu về phát triển kết cấu hạ tầng… theo 3 tiểu vùng để thực hiện mục tiêu đưa ra mà Nghị quyết số 24-NQ/TW đề ra.

"Quy hoạch Vùng cũng phải tập trung làm rõ về mặt tổ chức không gian thực hiện chức năng Trung tâm kinh tế, tài chính, thương mại, dịch vụ, giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số hàng đầu cả nước và khu vực Đông Nam Á và giữ vai trò quan trọng trong liên kết phát triển với các vùng kinh tế khác thế nào". TS. Nguyễn Bá Ân nêu quan điểm.

Vị chuyên gia này cũng đặc biệt lưu ý tới giải pháp đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại kinh tế vùng theo hướng hiện đại, lấy kinh tế số, kinh tế chia sẻ, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn là trọng tâm và động lực phát triển của vùng Đông Nam Bộ.

"Phải cơ cấu lại ngành công nghiệp của Vùng, ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghệ mới, công nghệ cao", ông nói và nhấn mạnh vấn đề phát triển hạ tầng kết nối các khu công nghiệp để hình thành các cụm liên kết ngành (cluster) công nghiệp nhằm thu hút các dự án công nghiệp quy mô lớn, công nghệ cao, có khả năng tham gia sâu vào mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu cũng phải được làm rõ cả về định hướng và tổ chức không gian.

Để Vùng trở thành trung tâm dịch vụ của khu vực Đông Nam Á về tài chính, thương mại, du lịch, giao lưu quốc tế…, theo ông Ân, phải phát triển hệ thống logistics cấp quốc gia, quốc tế gắn với cảng biển, cảng hàng không, cửa khẩu quốc tế, các trục hành lang kinh tế trọng điểm và tuyến thương mại liên vùng tại TP. Hồ Chí Minh; Bình Dương; Long Thành, Nhơn Trạch (tỉnh Đồng Nai); thị xã Phú Mỹ (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu), tỉnh Tây Ninh phải được chú trọng.

"Phải đổi mới tư duy, tầm nhìn về liên kết phát triển vùng, mới phát huy được sự năng động, sáng tạo của từng địa phương. Tăng cường đổi mới liên kết vùng trên cơ sở xây dựng cơ chế liên kết và điều phối vùng hiệu lực, hiệu quả, thúc đẩy liên kết giữa các địa phương trong Vùng, giữa Vùng với các vùng khác và các nước tiểu vùng sông Mê Công, ASEAN và thế giới", ông nói và đặc biệt lưu ý tới việc cần xác định rõ những nhiệm vụ trọng tâm cần giải quyết và các khâu đột phá của Vùng trong thời kỳ quy hoạch; danh mục các dự án ưu tiên.

Làm rõ hơn phương hướng liên kết bảo vệ môi trường Vùng và liên tỉnh, các lưu vực sông liên tỉnh, các khu vực ven biển liên tỉnh; kết cấu hạ tầng phòng, chống thiên tai trên lãnh thổ các tiểu vùng.

PGS, TS. Bùi Tất Thắng, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển cũng cho rằng, phải có tư duy đột phá, phải có hệ sinh thái công nghiệp mới. Ông cũng chỉ rõ, nếu không tìm được động lực mới, thì TP. Hồ Chí Minh cũng giảm tốc độ tăng trưởng và khó duy trì được tốc độ tăng trưởng.

Hình thành khung định hướng phát triển vùng Đông Nam Bộ thời kỳ 2021-2030
Hình thành khung định hướng phát triển vùng Đông Nam Bộ thời kỳ 2021-2030
Hình thành khung định hướng phát triển vùng Đông Nam Bộ thời kỳ 2021-2030
Hình thành khung định hướng phát triển vùng Đông Nam Bộ thời kỳ 2021-2030
Hình thành khung định hướng phát triển vùng Đông Nam Bộ thời kỳ 2021-2030
Các chuyên gia góp ý cho Báo cáo. Ảnh: MPI

Đây là cơ hội sắp xếp lại, bắt tay vào giải quyết các điểm nghẽn

Đánh giá cao sự chuẩn bị của Viện Chiến lược phát triển, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng lưu ý thêm một số vấn đề để hoàn thiện hơn báo cáo khung định hướng quy hoạch vùng Đông Nam Bộ.

Cụ thể, về hạn chế, thách thức, Bộ trưởng cho rằng, cần phân tích thêm việc Vùng đang phụ thuộc nhiều vào FDI, việc phân tích này có thể nhìn từ góc độ từng tỉnh, cả Vùng. Việc phân tích này sẽ giúp các nhà hoạch định chính sách có sự đổi mới, để xây dựng được nền kinh tế có tính tự chủ, chống chịu cao hơn.

Về quan điểm phát triển, Bộ trưởng chỉ rõ, quan điểm phải là "chủ động kiến tạo quyết định tương lai". Theo Bộ trưởng, những từ khóa này áp dụng cho Vùng rất đúng và trúng. Bên cạnh đó là phải giải quyết được bài toán về các điểm nghẽn, thách thức, cản trở, mẫu thuẫn, xung đột trong quá trình phát triển vừa qua và dự kiến trong thời gian tới.

"Quy hoạch là cơ hội để giải quyết các bài toán", Bộ trưởng nói.

Tiếp đó là phải tạo môi trường sống tốt nhất để hút hút được nơi đáng đến, đáng sống, thu hút chuyên gia, nhân tài, nhà khoa học…; có các hạ tầng xã hội vui chơi giải trí, mua sắm, ẩm thực, văn hóa… tạo nên giá trị mới như Singapore.

Bộ trưởng cho rằng, TP. Hồ Chí Minh rất xứng đáng để làm được mô hình phát triển: Kinh tế số, kinh tế chia sẻ, xanh, tuần hoàn… Bên cạnh đó, TP. Hồ Chí Minh cũng cần có thêm kinh tế ban đêm. Đây là động lực đóng góp cho tăng trưởng của nền kinh tế trong thời gian tới.

Về tổ chức không gian phát triển, cần phân tích rõ theo 3 tiểu vùng, từ các thuận lợi, khó khăn, thách thức. Đặc biệt, cần làm rõ vai trò của TP. Hồ Chí Minh với vùng; vai trò của vùng với việc liên kết với Tây Nguyên, với Duyên hải Nam Trung Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long, để thấy được tác động bổ trợ nhau, hạ tầng kết nối, không gian phát triển như thế nào.

Về các dự án ưu tiên, Bộ trưởng yêu cầu, xác định rõ thể chế đi kèm, vì không giải quyết được vấn đề không gian, hạ tầng mới thì không thể tạo đột phá.

Bộ trưởng cũng yêu cầu cơ quan tư vấn phân tích để tạo không gian ngầm, tạo ra nguồn lực, động lực mới, vừa giúp giảm tải giao thông, vừa giảm tải ô nhiễm và vừa phát triển kinh tế. Xử lý sụt lún, úng ngập.

Về cơ chế, nguồn lực của Vùng, Bộ trưởng cho rằng, cần phân cấp ủy quyền cho địa phương. Bên cạnh đó cần nâng cao vai trò của Hội đồng vùng... Các cơ chế để tạo động lực không gian mới, giá trị mới cho phát triển theo hướng đột phá táo bạo.

Để tiếp tục hoàn thiện báo cáo lần 1 để trình Chính phủ trong tháng 8 này, Bộ trưởng đề nghị, phần đánh giá hiện trạng cần nhận diện chính xác các điểm nghẽn của Vùng, phải phân tích bằng số liệu, tính toán chứ không phải chỉ định tính, mà phải cân đong đo đếm được. Trong điểm nghẽn, thì phần hạ tầng đã rõ, nhưng chưa thấy đề cập tới tư duy trong phát triển cát cứ theo địa phương, chưa phân cấp, ủy quyền, chưa có cơ chế chính sách huy động nguồn lực thỏa đáng đáp ứng nhu cầu.

Nhận diện được các vấn đề tắc nghẽn, thách thức, cản trở lớn đối với Vùng, từ đó thấy được tính cấp bách, giải quyết vấn đề tắc nghẽn.

"Trong quy hoạch không đặt vấn đề trên không biết bao giờ mới làm được", Bộ trưởng băn khoăn và chỉ rõ, đây là cơ hội sắp xếp lại, bắt tay vào giải quyết các điểm nghẽn của TP. Hồ Chí Minh để tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển, giảm ô nhiễm môi trường.

"Vấn đề ngập úng phân tích rõ hơn, sụt lún thế nào; triều cường, nước biển dâng… nguyên nhân ở đâu? Có phải đầu tư làm cản trở dòng chảy để thấy được phải giãn không gian; gắn với phát triển công nghiệp, đô thị như thế nào? Vấn đề ô nhiễm không khí từ đầu?… và cuối cùng là điểm nghẽn về hạ tầng xã hội", Bộ trưởng lưu ý các vấn đề cần nghiên cứu thêm để hoàn thiện Báo cáo khung định hướng quy hoạch vùng Đông Nam Bộ thời kỳ 2021-2023, tầm nhìn đến năm 2050.

Tại cuộc họp, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đưa ra bài toán cho đơn vị tư vấn, các chuyên gia góp ý, đó là làm sao để Đông Nam Bộ phải trở thành vùng phát triển năng động, là động lực tăng trưởng lớn nhất cả nước, trung tâm đổi mới sáng tạo, trung tâm tài chính quốc tế, có tính cạnh tranh cao trong khu vực, đi đầu trong đổi mới mô hình tăng trưởng.

"Làm thế nào để tạo ra được xung lực, cú hích để Vùng vừa phát triển mạnh mẽ, lại đảm bảo được sự hài hòa, phát triển bền vững", Bộ trưởng nêu vấn đề.

Xác định vai trò, vị trí, sứ mệnh của Vùng rất lớn lao, Bộ trưởng cho rằng, cần xác định các vùng động lực, các hành lang kinh tế mới, bổ sung cho nhau tạo động lực mạnh mẽ cho Vùng phát triển. Bộ trưởng lưu ý rằng, nếu phân bổ không gian, nếu quy hoạch không tốt, sẽ tạo nên tắc nghẽn, ngập úng, những vấn đề xã hội khác.

Chỉ rõ rằng, Nghị quyết số 24-NQ/TW đã ra đưa rất đầy đủ, rất rõ về quan điểm, mục tiêu, Bộ trưởng cho rằng, quan trọng là làm thế nào để tạo hiệu ứng, động lực lớn nhất cho phát triển.

"Mặc dù mới là khung lần đầu, nhưng báo cáo có tính chất quan trọng, có tính chất định hướng, dẫn dắt quyết định sự đóng góp của Vùng đối với đất nước", Bộ trưởng nhấn mạnh và yêu cầu, cuối tháng 8 hoàn thành báo cáo lần 1.

Hình thành khung định hướng phát triển vùng Đông Nam Bộ thời kỳ 2021-2030

Bài: Phương Anh
Ảnh: Đức Trung

Tạp chí Kinh tế và Dự báo 18:12 | 16/08/2023