Đến năm 2030, cần 738.500 tỷ đồng đầu tư hạ tầng giao thông Vùng

Theo Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng, Vùng Đông Nam Bộ có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng an ninh và đối ngoại của cả nước. Hệ thống giao thông Vùng có đầy đủ cả 5 phương thức vận tải đường bộ, đường thủy nội địa, đường sắt, hàng hải, hàng không.

Giải pháp tháo gỡ điểm nghẽn về kết cấu hạ tầng giao thông vùng Đông Nam Bộ

Vùng Đông Nam Bộ có đầy đủ cả 5 phương thức vận tải đường bộ, đường thủy nội địa, đường sắt, hàng hải, hàng không

Trong đó, về đường bộ, đã đầu tư và đưa vào khai thác 2 tuyến cao tốc TP. Hồ Chí Minh - Trung Lương - Mỹ Thuận và TP. Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây, đang đầu tư xây dựng một số đoạn tuyến cao tốc Bắc - Nam phía Đông; phần lớn các tuyến quốc lộ trong Vùng từng bước được đầu tư cải tạo, cơ bản khép kín đường Vành đai 2, đang đầu tư đoạn Tân Vạn - Bình Chuẩn thuộc Vành đai 3, TP. Hồ Chí Minh.

Về đường sắt, tuyến đường sắt quốc gia Bắc – Nam qua Vùng với tổng chiều dài khoảng 110 km, chất lượng hạ tầng thấp, kết nối với đường bộ chưa đáp ứng yêu cầu.

Đối với đường thủy nội địa, có 4 tuyến hành lang chính đóng vai trò kết nối nội vùng, liên vùng, trong đó có 2 tuyến kết nối TP. Hồ Chí Minh với Đồng bằng sông Cửu Long, 1 tuyến kết nối TP. Hồ Chí Minh với Đồng Nai, Bình Dương và 1 tuyến kết nối TP. Hồ Chí Minh với Cảng Cái Mép – Thị Vải, cơ bản đáp ứng nhu cầu vận tải.

Hệ thống cảng biển trong Vùng đã được đầu tư theo quy hoạch với quy mô, trang thiết bị hiện đại, trong đó Cảng Cái Mép - Thị Vải hiện thuộc nhóm cảng có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới và là một trong 21 cảng có thể tiếp nhận tàu có trọng tải 200.000 DWT.

Về hàng không, có 2 cảng hàng không (Tân Sơn Nhất, Côn Đảo) trong Vùng, đang tiếp tục được đầu tư, mở rộng; Cảng hàng không quốc tế Long Thành đang đầu tư giai đoạn 1 với công suất khoảng 25 triệu hành khách/năm.

Theo Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng, về đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông Vùng theo hướng hiện đại, đồng bộ, theo các quy hoạch, dự kiến tổng nhu cầu vốn đầu tư hạ tầng giao thông Vùng khoảng 738.500 tỷ đồng, trong đó, giai đoạn 2021-2025 khoảng 342.000 tỷ đồng (ngân sách trung ương đã bố trí khoảng 60.800 tỷ đồng); giai đoạn 2026 - 2030, khoảng 396.500 tỷ đồng.

Trong đó, tập trung hoàn thiện đầu tư các tuyến đường bộ cao tốc Bắc - Nam, cao tốc nối TP. Hồ Chí Minh với các cửa ngõ, các đầu mối giao thông quan trọng và các đường vành đai thuộc khu vực TP. Hồ Chí Minh gồm: hoàn thành đường Vành đai 3, Vành đai 4, Bến Lức - Long Thành, TP. Hồ Chí Minh - Mộc Bài, TP. Hồ Chí Minh - Chơn Thành, Biên Hòa - Vũng Tàu, Dầu Giây - Liên Khương, Gò Dầu - Xa Mát, Chơn Thành - Đức Hòa, Chơn Thành - Gia Nghĩa; tiếp tục đầu tư mở rộng các tuyến cao tốc TP. Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây, TP. Hồ Chí Minh - Trung Lương - Mỹ Thuận theo quy hoạch.

Dự án đường Vành đai 3 TP. Hồ Chí Minh chia thành 8 dự án thành phần thực hiện theo hình thức đầu tư công, đi qua địa bàn 3 tỉnh (Đồng Nai, Bình Dương, Long An) và TP. Hồ Chí Minh, tổng mức đầu tư hơn 75.300 tỷ đồng.

Nâng cấp tuyến đường sắt Bắc - Nam và khu đầu mối TP. Hồ Chí Minh hiện có để nâng cao hiệu quả khai thác đường sắt. Tiếp tục đầu tư đưa vào khai thác các tuyến đường sắt đô thị TP. Hồ Chí Minh, nghiên cứu đầu tư tuyến đường sắt Thủ Thiêm - Long Thành, tuyến đường sắt Biên Hòa - Vũng Tàu, tuyến đường sắt TP. Hồ Chí Minh - Cần Thơ.

Cải tạo, nâng cấp và hoàn thành đưa vào cấp kỹ thuật các luồng tuyến vận tải thủy nội địa như các tuyến TP. Hồ Chí Minh đi Kiên Lương, TP. Hồ Chí Minh đi Cà Mau, TP. Hồ Chí Minh đi Bến Kéo, TP. Hồ Chí Minh đi Bến Súc...

Nâng cấp luồng hàng hải từ phao số 0 vào cụm Cảng Cái Mép - Thị Vải, luồng Xoài Rạp; kêu gọi đầu tư các cảng biển, trung tâm logistic Cái Mép hạ, các cảng cạn trong Vùng để hình thành các trung tâm logistic lớn; hoàn thành di dời các cảng trên sông Sài Gòn; tiếp tục hiện đại hóa cảng cửa ngõ quốc tế Cái Mép - Thị Vải thành cảng quốc tế trung chuyển lớn, tầm cỡ khu vực châu Á và quốc tế; xây dựng cảng trung chuyển quốc tế Cần Giờ.

Đầu tư đưa vào khai thác nhà ga T3 Cảng hàng không Tân Sơn Nhất, Cảng hàng không Long Thành giai đoạn 1 và tiếp tục đầu tư giai đoạn 2 để nâng công suất lên 50 triệu hành khách/năm; hoàn thành nâng cấp Cảng hàng không Côn Đảo; nghiên cứu, khôi phục Cảng hàng không Biên Hòa - Vũng Tàu.

Phát triển đồng bộ hệ thống logistics cấp quốc gia, khu vực và quốc tế gắn với cảng biển, cảng hàng không, cửa khẩu quốc tế, các hành lang kinh tế trọng điểm; xây dựng trung tâm logistic hàng không gắn với Sân bay quốc tế Long Thành, đầu tư phát triển hệ thống logistics gắn với cảng biển tại Bà Rịa - Vũng Tàu và TP. Hồ Chí Minh.

5 giải pháp tháo gỡ điểm nghẽn về kết cấu hạ tầng giao

Đưa ra một số giải pháp tháo gỡ điểm nghẽn về kết cấu hạ tầng giao thông đáp ứng nhu cầu phát triển, tạo động lực tăng trưởng cho vùng Đông Nam Bộ, theo Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng, trước tiên cần đổi mới tư duy, tầm nhìn, phát huy sự năng động, sáng tạo của các địa phương trong quy hoạch, quản lý, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông Vùng.

Giải pháp tháo gỡ điểm nghẽn về kết cấu hạ tầng giao thông vùng Đông Nam Bộ
Theo Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng, cần đổi mới tư duy, tầm nhìn, phát huy sự năng động, sáng tạo của các địa phương trong quy hoạch, quản lý, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông Vùng

Thứ hai, đẩy mạnh thực hiện phân cấp, phân quyền cho các địa phương trong Vùng đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng giao thông do Trung ương quản lý trên địa bàn tỉnh/thành phố, đặc biệt là các công trình đường bộ, đường sắt, hàng không để phát huy tính chủ động của các địa phương trong huy động nguồn lực đầu tư.

Thứ ba, đa dạng nguồn lực để phát triển kết cấu hạ tầng giao thông; xây dựng cơ chế, chính sách đột phá để huy động vốn tư nhân, vốn hợp pháp khác tham gia đầu tư xây dựng, trong đó ưu tiên các nguồn lực để đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng giao thông trọng điểm, có vai trò động lực, lan toả, liên kết Vùng; bố trí kịp thời, đầy đủ vốn đầu tư công trung hạn, đồng thời kết hợp hiệu quả nguồn vốn Trung ương và địa phương.

Thứ tư, sớm hoàn thành quy hoạch tỉnh đảm bảo phù hợp, đồng bộ với các quy hoạch ngành quốc gia và quy hoạch vùng, khai thác có hiệu quả quỹ đất sau khi các dự án kết cấu hạ tầng giao thông được đầu tư.

Cuối cùng, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành hoạt động vận tải, nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải, logistics, triển khai đồng bộ các giải pháp bảo đảm an toàn giao thông; ứng dụng công nghệ trong tổ chức, điều hành giao thông đô thị, đẩy mạnh giải pháp chống ùn tắc giao thông nội đô…/.