PV: Qua nhiều lần cải cách hệ thống văn bản pháp lý, khung pháp lý của Việt Nam liên quan đến chính sách thu hút đầu tư đã cơ bản đầy đủ, được đánh giá là cạnh tranh so với các nước. Xin ông nêu rõ những điểm nổi bật trong chính sách thu hút FDI trong bối cảnh hiện nay?

Hoàn thiện chính sách nhằm tăng cường thu hút và cải thiện chất lượng dòng vốn FDI
Ông Đỗ Văn Sử, Phó Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Ông Đỗ Văn Sử: Những năm gần đây, cùng với sự thay đổi trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội trong và ngoài nước, Việt Nam quyết tâm có sự thay đổi chiến lược về chính sách để tăng cường thu hút và cải thiện chất lượng vốn đầu tư nước ngoài. Thể chế, chính sách chung về đầu tư nước ngoài đã được hoàn thiện và cụ thể hóa tại các văn bản pháp luật. Theo đó, lần đầu tiên sau hơn 30 năm mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 50-NQ/TW về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030. Theo đó, đã nêu quan điểm chỉ đạo chủ động thu hút, hợp tác đầu tư nước ngoài có chọn lọc, lấy chất lượng, hiệu quả, công nghệ và bảo vệ môi trường là tiêu chí đánh giá chủ yếu. Ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, công nghệ sạch, quản trị hiện đại, có giá trị gia tăng cao, có tác động lan toả, kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.

Để triển khai các quan điểm chỉ đạo và mục tiêu đặt ra tại Nghị quyết số 50-NQ/TW, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 667/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược hợp tác đầu tư nước ngoài giai đoạn 2021-2030. Theo đó, đã đề ra các nhóm nhiệm vụ, giải pháp cụ thể về: (i) Cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; (ii) Phát triển hệ sinh thái về khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo; (iii) Đổi mới và nâng cao cạnh tranh trong thu hút đầu tư nước ngoài; (iv) Phát triển công nghiệp hỗ trợ, thúc đẩy liên kết, lan tỏa; (v) Phát huy năng lực nội tại và tận dụng lợi thế cạnh tranh nhằm cải thiện hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài; (vi) Nâng cao hiệu quả của hội nhập kinh tế quốc tế và vị thế Việt Nam trên trường quốc tế; và (vii) Hiện đại hóa và đa dạng hóa công tác xúc tiến đầu tư.

Vừa qua, trong bối cảnh Thuế tối thiểu toàn cầu được áp dụng rộng rãi trên thế giới từ ngày 01/01/2024, Quốc hội cũng đã giao[1] Chính phủ ban hành Nghị định về việc thành lập, quản lý và sử dụng Quỹ Hỗ trợ đầu tư với các cách tiếp cận hỗ trợ đầu tư hoàn toán mới, phù hợp với yêu cầu và tình hình thực tế.

PV: Và, những điều chỉnh chính sách đúng đắn đã mang lại những trái ngọt gì trong thu hút FDI của Việt Nam hiện nay, thưa ông?

Ông Đỗ Văn Sử: Mặc dù nền kinh tế thế giới và khu vực còn gặp nhiều khó khăn, thách thức, tiềm ẩn nhiều rủi ro, đồng thời làn sóng đầu tư có sự tái cấu trúc, chuyển dịch mạnh mẽ, song với những chính sách đúng đắn, quyết liệt, kịp thời để ổn định kinh tế vĩ mô, trong đó hoạt động thu hút FDI đã có sự phát triển rất tích cực cả về số lượng, chất lượng, quy mô theo hướng chọn lọc, hiệu quả và bền vững; tiếp tục có đóng góp vào việc phục hồi tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Theo đó, đã đạt được một số kết quả tích cực:

- Tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký đạt 496,7 tỷ USD và vốn thực hiện đạt gần 318,9 tỷ USD. Theo đó, Việt Nam nằm trong top 20 quốc gia thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhiều nhất thế giới[2].

- Môi trường đầu tư ngày càng thông thoáng cho nhà đầu tư nước ngoài phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội trong nước và yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế.

- Khu vực đầu tư nước ngoài có những đóng góp ngày càng lớn vào các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đến nay, đầu tư nước ngoài đóng góp khoảng 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, trên 50% giá trị sản xuất công nghiệp, gần 75% giá trị kim ngạch xuất khẩu, hơn 27% giá trị nộp ngân sách nhà nước, tạo ra hơn 6 triệu việc làm trực tiếp. Bên cạnh đó, khu vực đầu tư nước ngoài còn có tác động lan tỏa, thúc đẩy các khu vực kinh tế khác phát triển, qua đó góp phần năng lực cạnh tranh chung của doanh nghiệp cũng như cả nền kinh tế Việt Nam.

Với sự đóng góp của khu vực đầu tư nước ngoài, Việt Nam đã vươn lên lọt vào 40 nền kinh tế hàng đầu, có quy mô thương mại trong top 20 quốc gia trên thế giới, là mắt xích quan trọng trong 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) gắn kết với 60 nền kinh tế chủ chốt ở khu vực và toàn cầu.

- Cơ cấu FDI tiếp tục chuyển dịch tích cực, đồng thời có sự cải thiện đáng kể về chất lượng các dự án đầu tư. Phần lớn các dự án tập trung trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo (chiếm 64,2%). Trong đó có nhiều dự án quy mô lớn, sử dụng công nghệ cao trong các lĩnh vực điện tử, sản xuất chất bán dẫn, công nghiệp phụ trợ, ứng dụng công nghệ tiên tiến đã đầu tư vào Việt Nam trong những năm gần đây.

- Đầu tư nước ngoài tiếp tục đóng vai trò quan trọng giúp Việt Nam hội nhập sâu và toàn diện, hiệu quả nâng cao hơn nữa vai trò, vị thế, uy tín theo hướng thuận lượi, minh bạch và phù hợp với thông lệ quốc tế; khẳng định Việt Nam tiếp tục là điểm đến an toàn, hấp dẫn, củng cố niềm tin của nhà đầu tư nước ngoài. Đến nay, Việt Nam đã ký kết 17 Hiệp định thương mại tự do (FTAs), trong đó bao gồm các FTAs thế hệ mới, như: CPTPP, EVFTA, RCEP; qua đó, thiết lập được quan hệ thương mại tự do với trên 60 nước, đối tác trong đó có những thị trường lớn nhất trên thế giới.

PV: Qua quá trình triển khai các chính sách thu hút FDI, xin ông chỉ rõ các bài học kinh nghiệm quan trọng và nêu rõ các định hướng trong thời gian tới?

Ông Đỗ Văn Sử: Một số bài học kinh nghiệm cụ thể qua quá trình triển khai các chính sách thu hút FDI được đúc rút, đó là:

- Sự chỉ đạo điều hành quyết liệt của Lãnh đạo Đảng, Chính phủ, Thủ tướng Chính đã nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, tạo niềm tin đối với các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài.

- Thể chế, chính sách về đầu tư nước ngoài hoàn thiện và có tính cạnh tranh cao có vai trò quan trọng trong thu hút đầu tư nước ngoài cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư, kinh doanh của nhà đầu tư nước ngoài. Nếu không có giải pháp quyết liệt, đột phá, thì nhà đầu tư sẽ tìm đến quốc gia khác đang cạnh tranh với nước ta.

- Việc duy trì nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động của doanh nghiệp đã làm tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam.

- Nếu không chuẩn bị tốt các yếu tố cần thiết mà nhà đầu tư cần (nhân lực chất lượng cao, hạ tầng khu công nghiệp đồng bộ, công nghiệp hỗ trợ, thủ tục nhanh…), thì rất khó để thu hút đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư lớn.

- Cần có các chính sách và biện pháp kịp thời để biến thách thức thành cơ hội từ: (i) Sự chuyển dịch dòng vốn đầu tư toàn cầu và (ii) Xu hướng tái định vị cơ sở sản xuất của các tập đoàn lớn.

Về định hướng thu hút đầu tư nước ngoài trong thời gian tới, đó là thu hút đầu tư nước ngoài ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, quản trị hiện đại, có giá trị gia tăng cao, có tác động lan toả, kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu, kết nối chặt chẽ hữu cơ với khu vực kinh tế trong nước.

Thứ hai, tập trung thu hút đầu tư nước ngoài có trọng tâm, trọng điểm; lựa chọn khu vực, thị trường, đối tác để thúc đẩy hợp tác phát triển phù hợp với bối cảnh thế giới và khu vực; tái định vị dòng vốn đầu tư, giảm sự phụ thuộc vào các thị trường nhiều rủi ro và tiềm ẩn xảy ra tranh chấp; ưu tiên việc kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu; thu hút đầu tư xanh, công nghệ cao, công nghệ phụ trợ, phương pháp quản lý, quản trị tiên tiến.

Theo đó, ưu tiên thu hút các dự án đầu tư thuộc các ngành, lĩnh vực như: (i) khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, nghiên cứu và phát triển; (ii) kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, kinh tế tri thức; (iii) sản xuất chất bán dẫn, năng lượng mới (như hydrogen), năng lượng tái tạo; (iv) tài chính xanh, trung tâm tài chính; (v) công nghệ sinh học, y tế; (vi) linh kiện điện tử, ô tô điện…

PV: Để đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài, đón dòng vốn đầu tư chất lượng cao, Việt Nam đã, đang và sẽ xây dựng “màng lọc” đầu tư như thế nào, thưa ông?

Ông Đỗ Văn Sử: Thực hiện quan điểm chỉ đạo của Bộ Chính trị tại Nghị quyết 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030, trong thời gian qua, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chủ trì, phối hợp các bộ, ngành, cơ quan liên quan xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ 2 Bộ tiêu chí gồm:

+ Bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả đầu tư nước ngoài gồm 07 tiêu chí: (1) Suất đầu tư; (2) Lao động; (3) Công nghệ; (4) Chuyển giao công nghệ; (5) Tính liên kết và tác động lan tỏa; (6) Môi trường; (7) Quốc phòng, an ninh.

+ Bộ tiêu chí thu hút đầu tư nước ngoài có chọn lọc, gồm 42 chỉ tiêu, trong đó, có 29 chỉ tiêu về kinh tế (gồm 5 nhóm chỉ tiêu: (1) Nhóm phản ánh quy mô, đống góp vào sự phát triển của khu vực đầu tư nước ngoài; (2) Nhóm về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp; (3) Nhóm về đóng góp ngân sách; (4) Nhóm về tác động lan tỏa; (5) Nhóm về công nghệ), 8 chỉ tiêu về xã hội (gồm 2 nhóm chỉ tiêu: (i) Nhóm về tạo việc làm và thu nhập cho người lao động; (ii) Nhóm về bình đẳng giới) và 5 chỉ tiêu về môi trường (gồm: các biện pháp tiết kiệm năng lượng, hệ thống quản lý chất lượng tiêu chuẩn ISO, hệ thống xử lý nước thải đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường; việc kiểm kê khí nhà kính).

- Các bộ tiêu chí tiêu chí được xây dựng trên cơ sở: (i) Năng lực nội tại của nền kinh tế; (ii) Quan điểm, định hướng thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam là lấy chất lượng, hiệu quả, công nghệ, tác động lan tỏa và bảo vệ môi trường làm tiêu chí đánh giá chủ yếu; (iii) Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, bảo đảm phù hợp với các cam kết mà Việt Nam là thành viên; (iv) Có tính khả thi, tính thống nhất, định lượng và cụ thể.

- Mục tiêu là xây dựng công cụ để: (i) Phân tích, đánh giá chất lượng hoạt động đầu tư nước ngoài; (ii) Là thước đo chuẩn hóa để so sánh hiệu quả, chất lượng thu hút và quản lý đầu tư nước ngoài của các bộ, ngành, địa phương; (iii) Kịp thời phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ đối với các hoạt động đầu tư nước ngoài; (iv) Sàng lọc đầu tư, thu hút các dự án đầu tư nước ngoài có chất lượng, giá trị gia tăng cao, có tác động lan tỏa, kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.

PV: Bán dẫn vốn là ngành công nghiệp toàn cầu hóa. Sự cạnh tranh giữa các quốc gia trong khu vực và trên thế giới về thu hút FDI và đặc biệt là đối với ngành điện tử, bán dẫn ngày càng khốc liệt. Việt Nam đang và sẽ có những giải pháp gì trong thu hút đầu tư để tham gia sâu hơn chuỗi cung ứng toàn cầu trong ngành bán dẫn?

Ông Đỗ Văn Sử: Trong xu hướng đa dạng hóa chuỗi cung ứng và diễn biến phức tạp về địa chính trị trên thế giới, Việt Nam đang nổi lên như một điểm đến hấp dẫn cho các nhà đầu tư trong ngành công nghiệp bán dẫn dựa trên các yếu tố lợi thế cạnh tranh: (i) Nguồn nhân lực chất lượng cao với chi phí cạnh tranh; (ii) Sự đầu tư và nâng cấp mạnh về cơ sở hạ tầng; (iii) Cơ chế, chính sách ngày càng thông thoáng, cởi mở; và (iv) Quyết tâm chính trị cao của Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đặc biệt là sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Thủ tướng Chính phủ.

Trong thời gian vừa qua, Việt Nam đã có nhiều hành động quyết liệt để triển khai xúc tiến đầu tư trong lĩnh vực bán dẫn, cụ thể:

(1) Về điều hành, thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia về phát triển ngành công nghiệp bán dẫn do Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng Ban.

(2) Về chuẩn bị các điều kiện nền tảng:

- Ban hành (i) Chương trình Phát triển nguồn nhân lực và (ii) Chiến lược phát triển ngành công nghiệp bán dẫn và triển khai nhiều giải pháp, hành động cụ thể.

- Xây dựng Nghị định của Chính phủ về viêc thành lập Quỹ hỗ trợ đầu tư; trong đó, dự kiến sẽ có các hình thức hỗ trợ đột phá cho các doanh nghiệp đầu tư trong ngành công nghiệp bán dẫn.

- Về hạ tầng: (i) Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch điện VIII và thành lập Ban chỉ đạo Nhà nước về các công trình trọng điểm ngành năng lượng với mục tiêu cung cấp điện ổn định, bền vững phục vụ các dự án đầu tư, đặc biệt là các dự án đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao và ngành bán dẫn; (ii) Các địa phương cũng đang đẩy mạnh công tác giải phóng mặt bằng, chuẩn bị đủ mặt bằng sạch tại các khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao; (iii) Đẩy nhanh tiến độ các công trình giao thông quan trọng kết nối liên vùng, liên tỉnh, kết nối với với cảng biển, sân bay…

- Về thủ tục đầu tư kinh doanh, các dự án bán dẫn khi đầu tư vào Việt Nam sẽ có Tổ công tác liên ngành để hỗ trợ và áp dụng thủ tục đầu tư đặc biệt khi triển khai dự án tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu công nghệ thông tin tập trung, khu thương mại tự do và khu chức năng trong khu kinh tế.

Xin cảm ơn ông về cuộc trao đổi!

An Nhi (Thực hiện)

(Theo Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 01, tháng 01/2025)


[1] Nghị quyết số 110/2023/QH15 Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV.

[2] Được UNCTAD xếp hạng vào năm 2020