Từ khóa: kinh nghiệm quốc tế, quản lý đầu tư công, gợi ý chính sách

Summary

Public investment is the State's investment in programs and projects serving socio-economic development. In the context of many difficulties facing the world and regional economies, promoting public investment to restore economic growth is one of the solutions to improve economic growth of many countries in the world and Vietnam. The public investment management experience of other countries in the recent period always offers many useful policy lessons for Vietnam.

Keyword: international experience, public investment management, policy suggestions

GIỚI THIỆU

Ở Việt Nam, đầu tư công có ý nghĩa quan trọng, đóng vai trò tạo nền tảng vật chất kỹ thuật quan trọng cho đất nước, là “đòn bẩy” đối với một số ngành và vùng trọng điểm, đồng thời thực hiện các chính sách phúc lợi xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng. Trong hơn 3 thập kỷ qua, thực hiện chủ trương tái cấu trúc đầu tư công, tỷ trọng chi đầu tư công ở Việt Nam đang có xu hướng giảm dần nhưng về mặt giá trị tuyệt đối tăng lên, đầu tư công vẫn là nguồn đầu tư chủ yếu, chiếm đến 1/3 tổng đầu tư toàn xã hội.

Trong giai đoạn từ 2019 đến nay, trong bối cảnh đại dịch Covid-19, nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng chịu nhiều tác động tiêu cực, sản xuất, kinh doanh nhiều nơi bị đứt gẫy, các doanh nghiệp và người dân chịu tổn thất lớn. Các quốc gia trên thế giới đã đặt mục tiêu kiểm soát hoàn toàn dịch bệnh trước khi khôi phục lại các hoạt động kinh tế - xã hội nhằm phục hồi tăng trưởng kinh tế. Nhiều quốc gia đã có những gói hỗ trợ tài chính, can thiệp vào nền kinh tế để khôi phục sản xuất và cuộc sống của người dân. Trong đó, thúc đẩy đầu tư công nhằm phục hồi tăng trưởng là một trong những động lực để cải thiện tăng trưởng kinh tế của nhiều quốc gia trên thế giới và Việt Nam. Đầu tư cơ sở hạ tầng tạo ra tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng kinh tế, lại thúc đẩy đầu tư cơ sở hạ tầng. Vì thế, đầu tư công là một trong những giải pháp chống suy giảm kinh tế được nhiều quốc gia sử dụng. Kinh nghiệm quản lý đầu tư công của các quốc gia trong giai đoạn vừa qua đem lại nhiều bài học chính sách cho Việt Nam.

KINH NGHIỆM THẾ GIỚI

Đầu tư công ở Trung Quốc

Nền kinh tế lớn thứ hai thế giới hồi tháng 8/2022 đã quyết định cấp bổ sung 300 tỷ Nhân dân tệ cho các ngân hàng chính sách quốc gia, để rót vào dự án cơ sở hạ tầng. Gói này nằm trong gói chính sách gồm 19 điểm, có quy mô 1.000 tỷ Nhân dân tệ (146 tỷ USD) để Trung Quốc kích thích tăng trưởng, đồng thời kìm hãm tác động của phong tỏa và khủng hoảng bất động sản. Giai đoạn 2008-2009, đầu tư công của Trung Quốc tập trung vào phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ, đặc biệt là đường sắt cao tốc. Thực tế, Trung Quốc đã đặt mục tiêu phát triển mạng lưới đường sắt cao tốc từ năm 1997 với mục tiêu đưa vận tốc tàu chạy trung bình lên 70 km/h. Đến nay, đã có gần 37.900 km đường sắt cao tốc tỏa khắp đất nước Trung Quốc, kết nối toàn bộ các cụm siêu đô thị quan trọng, đáng chú ý, một nửa số này được hoàn thành trong 5 năm qua. Theo kế hoạch, dự kiến đến năm 2035, mạng lưới đường sắt cao tốc tại nước này sẽ tăng lên 70.000 km [6].

Từ năm 2013 đến 2015, Trung Quốc lại tập trung đầu tư hạ tầng đô thị, cụ thể như xây dựng và bảo trì đường, mạng lưới cấp nước và các công trình thoát nước. Đến năm 2015 đến 2019, cơ sở hạ tầng giao thông được Trung Quốc ưu tiên trở lại, nhưng tập trung hơn vào hệ thống giao thông huyết mạch và mạng lưới kho bãi, nhằm đáp ứng nhu cầu về sự bùng nổ thương mại điện tử. Giai đoạn 2020-2025, Trung Quốc bắt đầu mở rộng lĩnh vực đầu tư cơ sở hạ tầng cho công nghệ cao.

Quý I/2023, Cục Thống kê Trung Quốc đã công bố một con số đáng chú ý, đó là chỉ số giá tiêu dùng CPI của Trung Quốc trong tháng 3/2023 chỉ tăng 0,7% so với cùng kỳ năm ngoái, thấp hơn đáng kể mức tăng 1% của tháng 2. CPI thấp, một mặt, cho thấy lạm phát đang được kiểm soát tốt, nhưng cũng đồng thời cho thấy, sức tăng chi tiêu tiêu dùng chưa đủ mạnh, bởi mức lạm phát mục tiêu của chính phủ Trung Quốc là 3%. Để thúc đẩy tăng trưởng khi mà tiêu dùng nội địa chưa đạt kỳ vọng, chính phủ Trung Quốc đang tích cực đẩy mạnh đầu tư công. Theo Bloomberg, 2/3 các khu vực kinh tế của Trung Quốc đã thông báo các kế hoạch đầu tư cơ sở hạ tầng quy mô lớn, bao gồm hàng loạt dự án xây dựng hạ tầng giao thông, nhà máy và đường truyền dẫn năng lượng, khu công nghiệp. Tổng số vốn đầu tư lên đến 12,2 nghìn tỷ Nhân dân tệ, tương đương 1,8 nghìn tỷ USD, tăng 17% so với năm 2022 [6].

Trung Quốc trong hai thập kỷ qua đã có tỷ lệ đầu tư (công và tư) chiếm 50% sản phẩm quốc nội (GDP) [6]. Sự thành công của kinh tế Trung Quốc cũng nhờ những hiệu quả mang lại từ quản lý đầu tư công. Một số đặc trưng đáng chú ý trong quản lý đầu tư công của Trung Quốc như sau:

Về kế hoạch đầu tư và quy hoạch phát triển, tất cả các dự án đầu tư công đều phải nằm trong quy hoạch đã được duyệt mới được chuẩn bị đầu tư. Trung Quốc có Luật về quy hoạch. Ủy ban Phát triển và Cải cách nhà nước Trung Quốc là cơ quan đầu mối tổ chức thẩm định, tổng hợp, lập báo cáo thẩm định về các quy hoạch phát triển, trình Quốc Vụ viện (Chính phủ) phê duyệt; kiểm tra, tổng hợp kết quả thực hiện các quy hoạch đã được duyệt. Các bộ, ngành, địa phương căn cứ vào các quy hoạch phát triển đã được duyệt để đề xuất, xây dựng kế hoạch đầu tư và danh mục các dự án đầu tư (bằng vốn của ngân sách nhà nước và vốn đầu tư của xã hội).

Tất cả các dự án đầu tư công đều phải lập Báo cáo đề xuất dự án (kể cả các dự án đã có trong quy hoạch đã được phê duyệt). Việc điều chỉnh dự án (mục tiêu, quy mô, tổng mức đầu tư) nằm trong quy hoạch đã được phê duyệt phải được sự chấp thuận của cơ quan phê duyệt quy hoạch đó.

Về tổ chức quản lý đầu tư và thẩm định dự án, quản lý đầu tư công được phân quyền theo 4 cấp ngân sách: cấp Trung ương, cấp tỉnh, cấp thành phố và cấp huyện, trấn. Việc thẩm định các dự án đầu tư ở tất cả các bước (chủ trương đầu tư, báo cáo khả thi, thiết kế kỹ thuật và tổng khái toán, thiết kế thi công và tổng dự toán, đấu thầu...) đều thông qua Hội đồng thẩm định của từng cấp và lấy ý kiến thẩm định của các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan cùng cấp và cấp trên nếu có sử dụng vốn hỗ trợ của ngân sách cấp trên.

Về giám sát, kiểm tra, đánh giá đầu tư, việc tổ chức giám sát các dự án đầu tư công được thực hiện thông qua nhiều cấp, nhiều vòng giám sát khác nhau. Mục đích giám sát đầu tư của cơ quan Chính phủ là đảm bảo đầu tư đúng mục đích, đúng dự án, đúng quy định và có hiệu quả. Cơ quan có dự án phải bố trí người thực hiện giám sát dự án thường xuyên theo quy định pháp luật.

Ủy ban Phát triển và Cải cách từng cấp chịu trách nhiệm tổ chức giám sát các dự án đầu tư thuộc phạm vi quản lý của cấp mình, có bộ phận giám sát đầu tư riêng. Khi cần thiết có thể thành lập tổ đặc nhiệm để thực hiện giám sát trực tiếp tại nơi thực hiện dự án. Ủy ban phát triển và Cải cách thành lập và chủ trì các tổ giám sát đầu tư liên ngành với sự tham gia của các cơ quan tài chính, chống tham nhũng, quản lý chuyên ngành cùng cấp và các cơ quan, địa phương có liên quan.

Như vậy, trong quá trình phát triển, Trung Quốc đã không ngừng nghiên cứu hoàn thiện cơ sở luật pháp, chính sách về sử dụng vốn nhà nước đáp ứng yêu cầu quản lý sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này phù hợp với hoàn cảnh trong từng giai đoạn phát triển.

Đầu tư công ở Hàn Quốc

Năm 2017, Hàn Quốc đã chi 378.561 tỷ Won vốn đầu tư công. Chi đầu tư công tăng tăng trưởng bình quân 7,08%/năm. Từ sau khi khủng hoảng kinh tế, Hàn Quốc đã tăng cường chi đầu tư công để thúc đẩy kinh tế phát triển. Tỷ lệ đầu tư công chiếm bình quân khoảng 21% GDP Hàn Quốc; năm 2017 tỷ lệ đầu tư công chiếm tỷ lệ cao nhất trong cả giai đoạn, đạt 22,04% GDP; thấp nhất là năm 2010, chiếm 19,85%. Tốc độ phát triển của chi đầu tư công của Hàn Quốc có xu hướng giảm ở giai đoạn 2012-2015 và bắt đầu tăng lên ở những năm 2016, 2017 [5]. Từ năm 2010, Hàn Quốc triển khai kế hoạch 5 năm về tăng trưởng kinh tế xanh để phát triển kinh tế xanh bền vững, cải thiện chất lượng cuộc sống, thực hiện trách nhiệm quốc tế thực hiện các bon thấp.

Nguồn vốn đầu tư công của Hàn Quốc tập trung cao vào lĩnh vực an sinh xã hội, chiếm từ 22,2%-27,8% tổng nguồn vốn chi đầu tư công, chi tiêu cho lĩnh vực kinh tế chiếm từ 16,8%-19%, giáo dục và đào tạo chiếm khoảng 115%-16,3%, an ninh quốc phòng chiếm từ 10%-1,4%. Hàn Quốc luôn quan tâm đầu tư cơ sở hạ tầng dịch vụ công, nhất là mạng lưới công nghệ thông tin phục vụ cho chính phủ điện tử. Nhờ các khoản đầu tư này, Hàn Quốc trở thành nước đứng hàng đầu thế giới về Chính phủ điện tử (xếp thứ 1, năm 2010) và (xếp thứ 3 vào năm 2016). Phần còn lại là các khoản chi tiêu cho các lĩnh vực khác [5].

Cơ quan đánh giá độc lập về thẩm định dự án đầu tư công: Viện Phát triển Hàn Quốc (KDI), được thành lập năm 1971, đã được công nhận là cơ quan tư duy hàng đầu của Hàn Quốc, đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế và xã hội của Hàn Quốc. Đến năm 2000, Trung tâm quản lý đầu tư công - PIMA (Public Investment Management Center) được thành lập trực thuộc KDI, năm 2005, đổi thành Trung tâm Quản lý đầu tư cơ sở hạ tầng công và tư PIMAC (Public and Private Infrastructure Investment and Management Center). Với 3 chức năng chính là nghiên cứu, tư vấn/hướng dẫn đánh giá các dự án tiền khả thi và và thậm chí là đánh giá lại các dự án đầu tư công và cả dự án đầu tư của khu vực tư nhân; hỗ trợ các cơ quan chính phủ về công tác quản lý dự án; xúc tiến thị trường đầu tư PPP trong nước. Đây chính là chìa khóa giúp gia tăng hiệu quả quản lý đầu tư công của Hàn Quốc.

Bên cạnh đó, Bộ Chiến lược và Tài chính là đơn vị chịu trách nhiệm thẩm định thông qua và quyết định loại bỏ hoặc thực hiện dự án. Chỉ những dự án được thẩm định kỹ lưỡng và được xem xét độc lập mới được lựa chọn để tài trợ trong ngân sách. Sau khi Bộ Chiến lược và Tài chính thẩm định, các báo cáo nghiên cứu khả thi các dự án nêu trên sẽ được trình ra Quốc hội Hàn Quốc xem xét, quyết định. Chính nhờ có sự công khai minh bạch và kiểm tra chéo trong việc đánh giá, thẩm định các dự án đầu tư công, đã góp phần giúp Hàn Quốc kiểm soát tốt nguồn vốn đầu tư công, như: Hàn Quốc đã tăng cường hiệu quả tài khóa bằng cách loại bỏ các dự án không khả thi, tính từ năm 1999-2014, có đến 60% dự án khả thi được ngăn không phê duyệt do dự án không cần thiết hoặc không khẩn cấp. Tổng số tiền tiết kiệm tài chính từ việc đánh giá độc lập các dự án tiền khả thi và loại bỏ dự án không phù hợp thu được lên tới 120 nghìn tỷ Won [5].

Đầu tư công ở Nhật Bản

Chính sách tài khóa mở rộng của Chính phủ Nhật Bản đã giúp đất nước này quản lý đầu tư công hiệu quả bằng cam kết tăng nhu cầu trong nước nhằm hạn chế thặng dư thương mại với Mỹ và chủ động triển khai thực hiện kế hoạch về đầu tư công.

Năm 2016, chi đầu tư công của Nhật Bản đạt 90.722 tỷ Yên, tốc độ tăng trưởng trung bình đạt 1,01%/năm. Tỷ lệ đầu tư công của Nhật Bản ở giai đoạn 2011-2014 cao hơn hẳn so với giai đoạn 2010 trở về trước và giai đoạn 2015 - 2016. Tuy nhiên, từ năm 2012-2016, tỷ trọng vốn đầu tư công so với tổng GDP của Nhật Bản có xu hướng giảm dần. Bình quân cả giai đoạn 2010-2016, đầu tư công chiếm khoảng 17,8% GDP cả nước [5].

Chi tiêu công của chính phủ Nhật Bản cũng chủ yếu tập trung mạnh vào lĩnh vực an sinh xã hội, chiếm từ 46%-47% tổng mức đầu tu công; thứ hai là lĩnh vực chăm sóc sức khỏe chiếm khoảng 21%; các dịch vụ phát triển kinh tế chiếm khoảng 8,6%; giáo dục khoảng 8,1%; cơ sở hạ tầng dịch vụ công chiếm khoảng 5,5%; còn lại là chi đầu tư cho an ninh quốc phòng và các lĩnh vực khác [5].

Bên cạnh đó, hầu hết các khoản đầu tư địa phương ở Nhật Bản đuợc dành cho các vấn đề kinh tế (giao thông, kinh tế tổng hợp, thương mại và lao động, công nghiệp, nông nghiệp...). Đặc biệt, chính quyền địa phương chịu trách nhiệm về đường, cầu và bến cảng. Các hạng mục đầu tư lớn khác bao gồm bảo vệ môi trường, giáo dục và nhà ở. Ngược lại, chính quyền địa phương đầu tư rất ít vào chăm sóc sức khỏe hoặc bảo vệ xã hội (đây là các khoản sẽ do cấp trung ương thực hiện).

Năm 2010, Chính phủ Nhật Bản đã quyết định thực hiện chiến luợc quản lý tài khóa, trong đó đề ra các mục tiêu củng cố tình hình tài khóa chặt chẽ. Với mục đích tăng hiệu quả đầu tu công và giảm áp lực đối với ngân sách nhà nuớc. Nhật Bản đã quản lý chặt chẽ ngân sách trung ương và địa phương. Đến năm 2015, tổng thâm hụt ngân sách của Nhật Bản đã đuợc cắt giảm một nửa so với năm 2010. Chiến lược này còn đề ra tỷ lệ dư nợ đến năm 2021 phải giảm so với GDP [4].

Các cơ quan chức năng Nhật Bản hiện sử dụng nhiều phương pháp phân tích chi phí - lợi ích để thẩm định hiệu quả của các dự án đầu tư công. Truớc, đây, đối với các dự án đường bộ/đường nội đô, Bộ Đất đai, Hạ tầng và Giao thông Nhật Bản thực hiện các phương pháp thẩm định khác nhau và không công bố chi tiết về các phương pháp thẩm định. Tuy nhiên, từ năm 1998, Nhật Bản đã công khai phương pháp thẩm định các dự án đầu tư xây dựng cơ bản này. Thông qua việc ban hành “Hướng dẫn thẩm định khi phê duyệt dự án đầu tu công thuộc thẩm quyền của Bộ Xây dựng” và “Hướng dẫn chi tiết việc thẩm định khi phê duyệt dự án đầu tư công trong lĩnh vực đường bộ và đường nội đô”. Theo đó, phương pháp thẩm định dự án đầu tư công cũng được ban hành thống nhất. Điều này giúp bảo đảm lựa chọn được các dự án tốt hơn, nhất là trong bối cảnh nguồn lực đầu tư công hạn chế và các dự án hạ tầng thường có quy mô lớn.

MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ ĐỐI VỚI VIỆT NAM

Theo Nghị quyết số 29/2021/QH15, ngày 28/7/2021 của Quốc hội về Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025, nước ta tiếp tục thực hiện cơ cấu lại đầu tư công và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công, giảm tỷ trọng vốn đầu tư công trong tổng số vốn đầu tư toàn xã hội, phát huy vai trò dẫn dắt của đầu tư công, tăng cường thu hút các nguồn vốn đầu tư từ các khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Nghị quyết nêu rõ, tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm 2021-2025 khoảng 32%-34% GDP, tỷ trọng vốn đầu tư công bình quân 5 năm khoảng 16%-17% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Phấn đấu tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công bình quân giai đoạn 2021-2025 đạt trên 90% kế hoạch Quốc hội giao...

Để hoàn thành được mục tiêu đặt ra, trên cơ sở kinh nghiệm trong quản lý đầu tư công của các nước Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản, một số bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam như sau:

(1) Rà soát, hoàn thiện các quy định pháp luật để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về thể chế, cơ chế, chính sách; thực hiện nghiêm quy định của pháp luật về đầu tư công, các nguyên tắc, tiêu chí, thứ tự ưu tiên bố trí vốn đầu tư nguồn ngân sách nhà nước; nâng cao chất lượng công tác xây dựng kế hoạch, đảm bảo phù hợp với nguồn lực và khả năng thực hiện của dự án.

(2) Nâng cao trách nhiệm người đứng đầu trong việc quyết định chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư dự án; thực hiện tốt công tác chuẩn bị đầu tư, giải phóng mặt bằng, đền bù, tái định cư của các dự án khởi công mới.

(3) Thẩm định dự án và kiểm tra thẩm định dự án độc lập: Công tác thẩm định dự án phải thực chất và có chất lượng, bằng cách:

- Tăng cường năng lực thẩm định dự án của các cấp, các ngành vào một cơ quan, nhất là các cơ quan chủ quản, quan trọng về quản lý đầu tư công (Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Xây dựng…).

- Áp dụng các chuẩn mực quốc tế về thẩm định dự án đối với tất cả các dự án đầu tư công. Đồng thời, sử dụng thống nhất các chuẩn mức thẩm định dự án cho mọi dự án đầu tư công, bất kể nguồn vốn như thế nào.

- Lựa chọn dự án phải đi đôi với lập dự toán đầu tư và khả năng cân đối nguồn vốn: Chỉ phê duyệt chủ trương đầu tư dự án nếu như có phương án bố trí nguồn vốn đầy đủ và đáng tin cậy, nhất là các dự án thực hiện theo phương thức đối tác công tư, các dự án quan trọng quốc gia, dự án giao thông trọng điểm có nhu cầu vốn đầu tư lớn.

- Áp dụng khuôn khổ ngân sách trung hạn cho cả cấp trung ương và địa phương.

(4) Thay đổi phương thức làm quy hoạch: Chất lượng công tác quy hoạch hiện nay đã được nâng cao, từng bước phát huy kết quả tích cực trên thực tiễn và tạo ra các cơ hội phát triển mới, không gian phát triển mới và giá trị mới cho quốc gia, vùng, địa phương trong thời kỳ quy hoạch. Tuy nhiên, để nâng cao chất lượng quy hoạch, gắn với mục tiêu, khát vọng phát triển, đổi mới; chú trọng tính liên kết vùng, liên kết ngành, phát triển bền vững, chuyển đổi xanh, chuyển đổi số; một phương thức làm quy hoạch tốt hơn sẽ cần phải:

- Xác định rõ ràng các mục tiêu và ưu tiên chiến lược của đầu tư công, để từ đó có cơ sở loại bỏ những đề xuất dự án đầu tư không thích hợp ngay từ đầu.

- Quy hoạch phải căn cứ vào nguồn lực thực tế, nghĩa là những đề xuất đầu tư nhưng không có khả năng cân đối nguồn lực đầu tư sẽ không được đưa vào trong quy hoạch.

- Quy hoạch phải có tính điều phối giữa các cấp, các ngành để tránh sự chồng chéo, phân tán. Tăng cường áp dụng công nghệ hiện đại như công nghệ thông tin địa lý, chồng lớp bản đồ GIS, cho phép cập nhật kịp thời thông tin quy hoạch, bổ sung vào nguồn dữ liệu hiện trạng phục vụ kịp thời cho công tác quy hoạch. Việc chuẩn hóa cở sở dữ liệu là cơ sở tin cậy cho quá trình phân tích, phát hiện những điểm mâu thuẫn, chồng chéo, xung đột nảy sinh trong nội dung quy hoạch, qua đó nâng cao chất lượng quy hoạch.

(5) Tăng cường hiệu quả việc triển khai dự án: Thực hiện tốt các khâu chuẩn bị, đặc biệt là giải phóng mặt bằng; Đấu thầu và mua sắm công cạnh tranh và minh bạch; Theo dõi, giám sát, đánh giá chặt chẽ tiến độ thực hiện dự án, tiến độ giải ngân và/hoặc bố trí nguồn vốn và những trục trặc phát sinh để có biện pháp khắc phục sớm; Tạo điều kiện cho sự tham gia và giám sát của những bên có lợi ích liên quan.

(6) Siết chặt kỷ luật đối với việc điều chỉnh dự án: Những dự án đề nghị điều chỉnh cần có luận chứng chi tiết, phải được cơ quan có thẩm quyền đánh giá và chấp thuận. Quy định rõ trách nhiệm đối với những tổ chức và cá nhân là nguyên nhân của việc phải điều chỉnh dự án.

(7) Coi việc quản lý vận hành dự án như một khâu trong quy trình quản lý đầu tư công: Có quy định về việc chủ đầu tư có trách nhiệm bảo hành trong một thời gian nhất định đối với các dự án họ thực hiện. Theo dõi và hạch toán đầy đủ những thay đổi về giá trị của tài sản công trong suốt quá trình vận hành. Theo dõi chất lượng và hiệu quả cung ứng dịch vụ của dự án đầu tư công. Có dự toán đầy đủ chi phí thường xuyên cho hoạt động vận hành cũng như bảo trì, bảo dưỡng dự án khi đi vào hoạt động.

(8) Theo dõi, giám sát, đánh giá, kiểm toán dự án: Hợp nhất khung pháp lý cho hoạt động kiểm toán đối với mọi dự án đầu tư công; Việc đánh giá dự án phải được áp dụng cho mọi dự án (đối với những dự án quan trọng quốc gia đã có quy định); Rút ngắn thời gian đánh giá và kiểm toán dự án để tăng hiệu lực của các biện pháp chế tài đối với những sai phạm nếu có; So sánh các dự án vừa hoàn thành với các dự án khác (trong nước và quốc tế) về một số phương diện quan trọng, như: chi phí, tiến độ, chất lượng, khả năng cung ứng dịch vụ sau khi hoàn thành.. Cần tập trung thực hiện các chức năng theo dõi, giám sát và đánh giá đầu tư công trên phạm vi toàn quốc; phát triển các công cụ theo dõi, giám sát và đánh giá ở 3 cấp độ: chủ dự án, cơ quan chủ quản và cơ quan quản lý nhà nước; tạo môi trường hoạt động thuận lợi cho việc thực hiện các chức năng theo dõi, giám sát và đánh giá; sử dụng có hệ thống bằng chứng nhận đối với các quyết định đầu tư công và đánh giá tiến độ thực hiện đầu tư công...

Tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác giám sát, đánh giá đầu tư, tích hợp các hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu về quản lý đầu tư nhằm đảm bảo công khai, minh bạch thông tin và tăng cường giám sát đối với đầu tư công; Áp dụng quy tắc hậu kiểm đối với kế hoạch đầu tư công của các bộ, cơ quan trung ương, địa phương, bảo đảm tính tuân thủ các quy định và hiệu quả đầu tư công./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2015), Kinh nghiệm quốc tế trong quản lý đầu tư công.

2. Chính phủ Việt Nam và Ngân hàng Thế giới (2017), Đánh giá chi tiêu công Việt Nam, Chính sách Tài khóa hướng tới Bền vững, Hiệu quả và Công bằng.

3. Đỗ Đức Toàn (2022), Nâng cao hiệu quả đầu tư công ở Hàn Quốc và hàm ý cho Việt Nam, Tạp chí Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương, tháng 2/2022.

4. Hà Thị Tuyết Minh (2016), Kinh nghiệm quản lý đầu tư công tại Nhật Bản và Vương Quốc Anh, Tạp chí Tài chính, kỳ I, tháng 9/2016.

5. Thái Quang Thế (2020), Quản lý đầu tư công ở một số quốc gia và gợi ý cho Việt Nam, truy cập từ https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/quan-ly-dau-tu-cong-o-mot-so-quoc-gia-va-goi-y-cho-viet-nam-77189.htm.

6. VTV online (2023), Chính phủ Trung Quốc thúc đẩy đầu tư công nhằm phục hồi tăng trưởng 2023, truy cập từ https://vtv.vn/kinh-te/chinh-phu-trung-quoc-thuc-day-dau-tu-cong-nham-phuc-hoi-tang-truong-20230415122549947.htm.

ThS. Nguyễn Thị Thu Hà

Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân, Bộ Kế hoạch và Đầu tư

(Theo Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 03, tháng 02/2024)