Tóm tắt

Cho vay ngang hàng (Peer-to-Peer Lending - P2P Lending) là mô hình kinh doanh dịch vụ tài chính dựa trên nền tảng công nghệ số kết nối trực tiếp giữa người vay với người cho vay. Mô hình này đã phát triển và phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Bài viết xem xét xu hướng phát triển của thị trường cho vay ngang hàng thế giới, cách thức quản lý hoạt động cho vay, ưu và nhược điểm của từng phương thức, đồng thời, khái quát thực trạng phát triển của thị trường P2P Lending tại Việt Nam. Từ đó, bài viết đề xuất hàm ý hoàn thiện pháp luật đối với mô hình kinh doanh P2P Lending tại Việt Nam.

Từ khóa: cho vay ngang hàng, P2P Lending, pháp luật, hoạt động của ngân hàng

Summary

Peer-to-Peer Lending (P2P Lending) is a financial service business model based on digital technology that connects borrowers directly with lenders. This model has developed and become popular in many countries around the world. The article examines the development trend of the world P2P Lending market, methods to manage lending activities, and the advantages and disadvantages of each method. The article also overviews the development status of P2P Lending market, thereby proposing the policy recommendations for this market in Vietnam.

Key words: P2P Lending, law, commercial bank

TÌNH HÌNH P2P LENDING TRÊN THẾ GIỚI

Cho vay P2P trong những năm gần đây đang nổi lên như một xu thế, thay thế các khoản cho vay truyền thống của các ngân hàng thương mại trên thế giới. Khách hàng mục tiêu của loại hình cho vay này chủ yếu là các cá nhân, doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa, bởi vì đối với các ngân hàng truyền thống, việc cho vay các khách hàng này rất khó do xác suất vỡ nợ cao hơn, thiếu dữ liệu và quy mô nhỏ khiến mức sinh lời của các ngân hàng truyền thống thấp hơn. Các nền tảng cho vay P2P giải quyết các vấn đề này bằng cách sử dụng các quy trình tự động để giảm chi phí và các mô hình rủi ro tín dụng sử dụng dữ liệu phi truyền thống. Cho vay P2P và các hình thức tài trợ fintech khác đã phát triển nhanh chóng trong vài năm qua với tốc độ rất khác nhau trong đó các thị trường cho vay P2P lớn nhất thế giới là Trung Quốc, Mỹ, Anh và Nhật Bản.

Bản chất của mô hình cho vay P2P là luôn chịu các rủi ro tiềm năng như các nhà đầu tư có nguy cơ mất số tiền đã đầu tư. Người đi vay P2P luôn đối mặt với khả năng cạn kiệt vốn hoặc lãi suất cao hơn trong trường hợp nhóm nhà đầu tư bị thu hẹp. Thách thức đối với các cơ quan quản lý là bảo vệ các bên thoát khỏi các rủi ro hệ thống và duy trì một thị trường công bằng, an toàn và cạnh tranh. Đồng thời, cần khuyến khích tăng trưởng cho vay để hiện thực hóa tiềm năng chuyển đổi nguồn vốn cho các doanh nghiệp nhỏ và tăng cường tăng trưởng kinh tế. Từ đó, mô hình cho vay P2P trên thế giới đã đặt ra những nguyên tắc sau (Nemoto, 2019):

- Cung cấp một kênh đầu tư an toàn và hiệu quả cho một bộ phận rộng lớn của xã hội.

- Cho phép người vay tiếp cận nguồn vốn hợp lý và đáng tin cậy theo các điều kiện hợp lý.

- Cần phân biệt đối tượng đi vay dựa trên rủi ro vỡ nợ.

- Nền tảng phải cung cấp cho nhà đầu tư hiểu biết chính xác về rủi ro tín dụng và giảm ở mức tối đa các rủi ro về đạo đức.

- Các nền tảng cho vay không hiệu quả sẽ bị ra khỏi thị trường, mà không gây thiệt hại cho nhà đầu tư hoặc thiếu hụt nguồn vốn cho người đi vay.

- Hoạt động cho vay phải đủ mạnh trong thời kỳ suy thoái của chu kỳ kinh tế để ngăn chặn việc ngừng cho vay đột ngột, lãi suất cho vay quá cao.

- Cần duy trì một thị trường cạnh tranh giữa các nền tảng P2P để thúc đẩy sự lựa chọn của người đi vay, tránh rủi ro hệ thống do quá tải vì đi vay chỉ dựa vào một hoặc một số ít nền tảng.

- Hình thức cho vay này phải hữu ích cho xã hội và phục vụ nền kinh tế thực.

Từ các nguyên tắc trên, để hỗ trợ cho thị trường cho vay P2P, các nước đã đưa ra nhiều quy định hỗ trợ cho thị trường (Bảng 1).

BẢNG 1: BẢNG SO SÁNH CÁC QUY ĐỊNH ÁP DỤNG ĐỐI VỚI THỊ TRƯỜNG CHO VAY P2P CỦA CÁC THỊ TRƯỜNG LỚN NHẤT THẾ GIỚI

Luật pháp hóa hoạt động cho vay ngang hàng tại Việt Nam
Nguồn: Nemoto (2019)

Có thể thấy rằng, thị trường cho vay P2P trên thế giới có sự khác biệt rất lớn về cách thức quản lý, có quốc gia thắt chặt chính sách quản lý, cũng có quốc gia thực hiện nới lỏng chính sách quản lý.

CHO VAY P2P LENDING TẠI VIỆT NAM

Mô hình cho vay P2P đã nổi lên như một hiện tượng của thị trường tài chính thế giới trong thời gian gần đây, thay thế hoạt động cho vay của ngân hàng truyền thống. Mô hình cho vay này đang từng bước hình thành ở Việt Nam.

Bên cạnh đó, theo định hướng phát triển của ngành ngân hàng Việt Nam, trong thời gian tới, các ngân hàng sẽ hoạt động theo các nguyên tắc của Basel 2. Việc áp dụng chuẩn Basel trong hoạt động sẽ yêu cầu các ngân hàng thận trọng hơn trong việc cấp tín dụng, các yêu cầu cho vay sẽ được nâng cao hơn. Khi đó, việc huy động vốn của khu vực kinh tế tư nhân càng gặp nhiều khó khăn hơn. Trước bối cảnh đó, nhiều mô hình cho vay P2P đã được thành lập để đáp ứng nhu cầu này như Công ty cổ phần Interloan hợp tác với 3 ngân hàng: Sacombank, Nam Á Bank và Vietcapital Bank; Công ty cổ phần Tima và Ngân hàng Quốc dân (NCB), Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Á (Nam A Bank); Công ty cổ phần Lendbiz hợp tác với Ngân hàng Thương mại cổ phần Xăng dầu Petrolimex (PG Bank), Ngân hàng Quốc tế (VIB) để triển khai dịch vụ tài khoản cho khách hàng đầu tư tại Lendbiz.

Theo thống kê sơ bộ của Ngân hàng Nhà nước, Việt Nam hiện có khoảng 100 công ty P2P Lending (bao gồm cả công ty đã đi vào hoạt động chính thức và một số công ty đang trong giai đoạn thử nghiệm), như: Tima, Trust Circle, Vay mượn, Lendmo, Wecash, InterLoan…. Tuy nhiên, thực tế số doanh nghiệp hoạt động P2P Lending có thể nhiều hơn và rất khó đo lường một cách chính xác, vì hiện nay các cơ quan quản lý chưa tổ chức thống kê chính thức các thông tin liên quan đến doanh nghiệp triển khai hoạt động P2P Lending tại Việt Nam. Về hình thức, có thể thấy rằng, đa số các nền tảng P2P hoạt động theo phương thức P2P truyền thống, đối tượng khách hàng chủ yếu là khách hàng vay tiêu dùng và các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa (Bảng 2). Các khoản cho vay chủ yếu là cho vay tín chấp, tập trung ở các thành phố lớn, có nguồn vốn nhỏ. Lãi suất cho vay thường không quá 20%/năm, nhưng thu nhiều loại phí, như: phí tư vấn, phí trả nợ trước hạn và tổng các khoản phí và lãi khách hàng phải trả thậm chí lên đến 30% - 50%/tháng (Vụ Chính sách tiền tệ - Ngân hàng Nhà nước, 2020).

Thực tế cho thấy, pháp luật hiện hành của Việt Nam chưa có một đạo luật riêng hoặc một văn bản quy phạm pháp luật được ban hành chỉ để điều chỉnh hoạt động cho vay ngang hàng. Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 không có quy định về vay ngang hàng. Hoạt động cho vay ngang hàng không được xếp vào một dạng hoạt động cấp tín dụng theo cách hiểu của Luật Các tổ chức tín dụng. Theo quy định tại Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng, “cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác” và “cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”. Các thuật ngữ “cho vay” và “cấp tín dụng” theo quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng luôn đòi hỏi bên cho vay hoặc bên cấp tín dụng phải là một tổ chức tín dụng hoạt động hợp pháp tại Việt Nam. Trường hợp doanh nghiệp cung cấp nền tảng kết nối giữa người cho vay và người vay không trực tiếp là bên cho vay hoặc bên vay thì rõ ràng, doanh nghiệp trung gian này không phải là tổ chức tín dụng theo nghĩa của Luật Các tổ chức tín dụng.

BẢNG 2: DANH SÁCH MỘT SỐ CÔNG TY P2P LENDING HOẠT ĐỘNG TẠI VIỆT NAM

Luật pháp hóa hoạt động cho vay ngang hàng tại Việt Nam
Nguồn: Vụ Chính sách tiền tệ - Ngân hàng Nhà nước (2020)

Tuy nhiên, khi pháp luật hiện hành chưa có quy định nào cấm hoạt động cho vay ngang hàng, có thể xác định rằng, hoạt động cho vay ngang hàng, với tư cách là quan hệ hợp đồng, chịu sự điều chỉnh bởi các quy định về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự năm 2015, nhất là các quy định về hợp đồng vay tài sản.

Theo quy định tại Điều 465 Bộ luật Dân sự năm 2015, bên cho vay có các nghĩa vụ như sau: (1) Giao tài sản cho bên vay đầy đủ, đúng chất lượng, số lượng vào thời điểm và địa điểm đã thỏa thuận; (2) Bồi thường thiệt hại cho bên vay, nếu bên cho vay biết tài sản không bảo đảm chất lượng mà không báo cho bên vay biết, trừ trường hợp bên vay biết mà vẫn nhận tài sản đó; (3) Không được yêu cầu bên vay trả lại tài sản trước thời hạn, trừ trường hợp quy định tại Điều 470 của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan quy định khác.

Trong khi đó, bên vay có nghĩa vụ trả nợ được quy định cụ thể tại Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015 như sau: Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn, trừ trường hợp có thỏa thuận khác; Địa điểm trả nợ là nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở của bên cho vay, trừ trường hợp có thỏa thuận khác; Trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác; Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi như sau: a) Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này; b) Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Theo quy định tại Điều 467 Bộ luật Dân sự năm 2015, các bên có thể thỏa thuận về việc tài sản vay phải được sử dụng đúng mục đích vay. Bên cho vay có quyền kiểm tra việc sử dụng tài sản và có quyền đòi lại tài sản vay trước thời hạn nếu đã nhắc nhở mà bên vay vẫn sử dụng tài sản trái mục đích.

Do hoạt động cho vay P2P vẫn chưa chính thức được công nhận, nên hoạt động của các công ty P2P chưa đi vào hệ thống, nhiều công ty cho vay P2P được thành lập không theo chuẩn nên tiềm ẩn không ít rủi ro.

Theo đánh giá của Ngân hàng Nhà nước (2019), hoạt động P2P Lending tiềm ẩn nhiều rủi ro (rủi ro cho vay, rủi ro thông tin, rủi ro phòng chống rửa tiền, rủi ro an ninh mạng...) có thể tác động bất lợi, bất ổn đến an sinh xã hội. Cụ thể: Một số công ty P2P Lending lợi dụng việc thiếu thông tin, thiếu hiểu biết của người dân để quảng cáo và đưa ra thông tin không rõ ràng, sai lệch dẫn đến nhà đầu tư hiểu nhầm về việc các hoạt động đầu tư/cho vay qua các nền tảng của công ty P2P Lending đều được bảo hiểm rủi ro. Hơn nữa, hoạt động P2P Lending mới được hình thành và phát triển gần đây, các nền tảng giao dịch trực tuyến của công ty P2P Lending chưa được cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, đánh giá nên có thể tồn tại nguy cơ bị tấn công mạng đánh cắp thông tin gây thiệt hại cho các bên tham gia. Một số công ty P2P Lending là kênh phân phối, tìm kiếm khách hàng cho công ty tài chính, công ty cầm đồ, hoặc công ty cầm đồ hợp tác với công ty công nghệ xây dựng nền tảng giao dịch trực tuyến để công ty cầm đồ tìm kiếm người đi vay và thực hiện cho vay, trong đó một số công ty cầm đồ sử dụng nguồn tiền từ các khoản vay nước ngoài hoặc các khoản vay từ cá nhân, tổ chức trong nước để cho vay lại. Một số đối tượng có thể lợi dụng mô hình P2P Lending thực hiện hành vi bất hợp pháp (hoạt động tín dụng đen, cho vay nặng lãi, cho vay cầm đồ biến tướng, hoạt động tài chính đa cấp...), đưa ra quảng cáo sai sự thật, hứa hẹn lợi nhuận cao, lãi suất cạnh tranh để lừa đảo, chiếm dụng vốn của người dân; tác động tiêu cực đến cuộc sống của người dân, gây bất ổn đến an ninh kinh tế và ổn định xã hội. Trong một số trường hợp, công ty P2P Lending và công ty cầm đồ có dấu hiệu vi phạm Điều 8 Luật Các tổ chức tín dụng khi thực hiện hoạt động ngân hàng dưới hình thức cấp tín dụng.

MỘT SỐ ĐỀ XUẤT

Với thực trạng nêu trên, tác giả kiến nghị hoàn thiện pháp luật đối với mô hình kinh doanh P2P Lending tại Việt Nam, từ đó hạn chế những rủi ro trong quá trình hoạt động, như sau:

Thứ nhất, cần xác định cơ quan chủ quản các nền tảng cho vay P2P, trên cơ sở đó đưa ra các quy định về việc cấp phép hoạt động cho các nền tảng hiện hành, luật pháp hóa hoạt động cho vay P2P tại Việt Nam.

Thứ hai, cần thiết lập khung pháp lý cho hoạt động này, có thể thiết lập các quy định mang tính chất tạm thời (quy định hộp cát). Theo đó, các quy định này cho phép những nền tảng hiện có tham gia một cách chính thức theo khung pháp lý để hạn chế các biến tướng, đồng thời cũng giúp loại bỏ những nền tảng không hiệu quả. Các quy định tạm thời này có ưu điểm là có thể được điều chỉnh để phù hợp hơn với các bên liên quan, khá phù hợp với thị trường hoàn toàn mới.

Thứ ba, xác định vai trò của các nền tảng cho vay nhằm xác định mô hình hoạt động, loại bỏ các nền tảng không chính thống. Vai trò của nền tảng cũng giúp xác định đối tượng khởi tạo khoản vay nhằm phát triển thêm các quy định pháp lý hoàn chỉnh.

Thứ tư, đây là một trong những hình thức cho vay khá rủi ro đối với các nhà đầu tư. Vì vậy, để thu hút các nhà đầu tư tham gia vào thị trường, việc cần thiết là lập quỹ dự phòng sau khi đã luật pháp hóa hoạt động cho vay ngang hàng tại Việt Nam.

Thứ năm, cần có sự hỗ trợ của Bộ Khoa học và Công nghệ trong việc thúc đẩy nghiên cứu các giải pháp cho hoạt động cho vay đi đúng hướng, hỗ trợ có hiệu quả cho “khu vực trũng” trong thị trường tài chính./.

TS. NGUYỄN QUỐC ANH

Khoa Ngân hàng - Trường Đại học Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh

(Theo Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 07 - Tháng 3/2023)

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bùi Tín Nghị và cộng sự (2022), Nghiên cứu hoạt động cho vay ngang hàng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam, Đề tài cấp ngành 2021, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

2. Lee, E., Lee, B. (2012), Herding behavior in online P2P lending: An empirical investigation, Electronic Commerce Research and Applications, 11(5), 495-503.

3. Nemoto, Naoko and Storey, David J., and Huang, Bihong (2019), ADBI Working Paper 912, retrieved from SSRN: https://ssrn.com/abstract=3313999 or http://dx.doi.org/10.2139/ ssrn.3313999.

4. Ngân hàng Nhà nước (2019), Công văn số 5228/NHNN-CSTT, ngày 8/7/2019 gửi các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

5. Vụ Chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước (2020), Chương trình tập huấn về cho vay ngang hàng, truy cập từ http://truongnganhang.edu.vn/AIAdmin/News/View/tabid/66/newsid/6829/seo/ Tai-lieu-khoa-boi-duong-Mo-hinh-cho-vay-ngang-hang/Default.aspx.