Tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam lên tới 143%

Tuy giai đoạn giai đoạn 2011-2020, thị trường tái chính (TTTC) Việt Nam đã có những bước tiến đáng ghi nhận, nhưng theo TS. Vũ Nhữ Thăng, Phó Chủ tịch phụ trách Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia, thị trường vẫn bộc lộ không ít hạn chế.

Theo đó, quy mô TTTC còn nhỏ so với các nước trong khu vực. Tổng tài sản của các định chế tài chính Việt Nam tính đến cuối năm 2020 tương đương 219% GDP, thấp hơn so với mức 320% GDP của bình quân nhóm 5 quốc gia hàng đầu ASEAN. Cuối năm 2020, vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt khoảng 84% GDP, thấp hơn các thị trường cổ phiếu trong khu vực (từ 93-243% GDP, ngoại trừ Indonesia)...

TS. Vũ Nhữ Thăng: Đề xuất 6 giải pháp phát triển thị trường tài chính 2021-2030
Nguồn tổng hợp từ số liệu của Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia

Đặc biệt, cấu trúc thị trường chưa cân đối giữa thị trường vốn và thị trường tiền tệ. TTTC phụ thuộc nhiều vào thị trường tiền tệ - ngân hàng với gánh nặng là nguồn cung ứng vốn chính cho nền kinh tế. Tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam thuộc nhóm cao trên thế giới (tăng liên tục từ mức 103% năm 2011 lên 143% năm 2020). Hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD) chiếm khoảng 95% tổng tài sản của hệ thống tài chính trong giai đoạn 2011-2020; thị trường vốn mới chiếm hơn 1/3 vốn cung ứng cho nền kinh tế (so với mức bình quân 2/3 của các thị trường trong khu vực ASEAN). Sản phẩm trên thị trường vốn còn thiếu đa dạng, chất lượng một số hàng hóa chưa đảm bảo; cơ sở nhà đầu tư trong nước còn hạn chế…

Trên thị trường ngân hàng, tín dụng vào các lĩnh vực rủi ro cao chưa minh bạch, có hiện tượng cho vay bất động sản, chứng khoán nhưng được che giấu dưới hình thức cho vay phục vụ các nhu cầu đời sống. Sở hữu chéo tại các TCTD tuy được cải thiện nhưng chưa được xử lý triệt để. Trên thị trường vốn, cơ cấu thị phần mất cân đối lớn, chủ yếu tập trung vào các công ty chứng khoán lớn, có tiềm lực tài chính mạnh; sản phẩm trên thị trường vốn còn sơ khai, chưa đa dạng; cơ sở nhà đầu tư còn hạn chế; thị trường trái phiếu vẫn phụ thuộc lớn vào các ngân hàng thương mại, chưa hình thành hệ thống các quỹ hưu trí tự nguyện, quỹ phòng hộ, quỹ tín thác... Thị trường cổ phiếu dù cải thiện về quy mô, nhưng nguồn vốn đi vào khu vực kinh tế thực thông qua việc phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng chưa lớn...

Thị trường tài chính Việt Nam vẫn quá phụ thuộc vào thị trường tiền tệ
Nguồn: WB

Một hạn chế nữa của TTTC Việt Nam là chất lượng cung cấp thông tin và minh bạch trên thị trường còn khoảng cách so với quốc tế; năng lực quản trị doanh nghiệp, quản trị rủi ro và tài chính của các trung gian tài chính còn hạn chế; chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) vẫn còn nhiều khác biệt, chưa theo kịp với chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS), tạo kẽ hở để một số tổ chức lợi dụng hạch toán sai bản chất giao dịch...

“Mô hình giám sát tài chính Việt Nam hiện phân tán theo chuyên ngành, nhưng thiếu sự phối hợp chặt chẽ và không có đầu mối mang tính tích hợp để giám sát toàn diện của TTTC, theo dõi được sự luân chuyển của dòng tiền, của các hoạt động đầu tư chéo, sở hữu chéo và các giao dịch ngân hàng ngầm. Trong khi đó, rủi ro mang tính hệ thống từ sự liên thông giữa các bộ phận của TTTC gia tăng trong bối cảnh TTTC xuất hiện ngày càng nhiều các tập đoàn tài chính gắn liền với các hoạt động ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm. Phương thức giám sát thiên về giám sát tuân thủ, mà chưa chú trọng đúng mức giám sát trên cơ sở rủi ro; giám sát cẩn trọng vĩ mô TTTC chưa được quan tâm đúng mức. Quyền hạn của các cơ quan giám sát còn nhiều hạn chế, nhất là thẩm quyền tiếp cận thông tin và chế tài xử lý vi phạm và giám sát an toàn…”, ông Thăng cho biết.

6 đề xuất cho thị trường tài chính 2021-2030

Liên quan đến định hướng phát triển TTTC Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030, ông Thăng đưa ra 6 đề xuất.

Thứ nhất, cần phát triển thị trường tiền tệ và thị trường vốn với quy mô ngày càng lớn, có tính ổn định, minh bạch, cơ cấu TTTC phù hợp để hỗ trợ vốn phát triển kinh tế

Chú trọng phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp để trở thành kênh huy động vốn trung, dài hạn hiệu quả cho nền kinh tế. Phấn đấu hoàn thành mục tiêu mức vốn hóa thị trường/GDP đạt 120% vào năm 2025, trái phiếu/GDP đạt 55% vào năm 2025; nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam trên danh sách các thị trường mới nổi theo tiêu chuẩn của MSCI và FTSE Russell.

Theo đó, cần đa dạng hóa các công cụ và phương thức giao dịch trên thị trường tiền tệ, đặc biệt là các công cụ phòng ngừa rủi ro thị trường. Tiến hành phát triển các công cụ phái sinh trên thị trường tiền tệ về tỷ giá và lãi suất nhằm phân tán rủi ro và phòng ngừa rủi ro trên thị trường... Phát triển đồng bộ và tăng tính liên kết, giảm tình trạng phân khúc và thiếu tính liên thông giữa các thị trường bộ phận bao gồm thị trường liên ngân hàng, thị trường mở, thị trường ngoại hối, thị trường tín dụng - huy động ngắn hạn. Đẩy mạnh hoạt động thị trường tiền tệ - ngân hàng theo cơ chế thị trường, tiến tới cho phép thành viên tham gia thị trường được tự do quyết định mức lãi suất huy động vốn và cho vay dựa trên cung - cầu vốn trên thị trường. Phát triển thị trường vốn theo chiều sâu nhằm gia tăng vốn trung và dài hạn, phục vụ phát triển kinh tế. Đa dạng hóa cơ sở hàng hóa trên thị trường thông qua tăng số lượng doanh nghiệp niêm yết. Tăng cường cơ sở nhà đầu tư với mục tiêu tăng số lượng nhà đầu tư và phát triển các định chế đầu tư chuyên nghiệp. Cùng với tăng cường sự tham gia sâu hơn của khu vực bảo hiểm vào TTTC, đặc biệt là thị trường vốn để cung ứng vốn trung và dài hạn một cách bền vững, cần gia tăng vai trò của các tổ chức trung gian thị trường để giúp TTTC hoạt động lành mạnh, gia tăng tính minh bạch của thị trường...

Thứ hai, phát triển các dịch vụ tài chính hiện đại theo xu hướng của quốc tế về tài chính toàn diện, công nghệ tài chính

Phát triển đa dạng các sản phẩm dịch vụ tài chính, các sản phẩm dịch vụ hiện đại dựa trên ứng dụng công nghệ, các sản phẩm fintech trong tĩnh vực tiền tệ - ngân hàng. Khuyến khích và sớm có hướng dẫn quản lý sử dụng fintech trong các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán: Giao dịch tự động bằng robot, tư vấn đầu tư tự động, quản lý danh mục tự động. Nghiên cứu xây dựng cơ chế thử nghiệm đối với các sản phẩm, dịch vụ chứng khoán áp dụng công nghệ fintech trước khi chính thức cấp phép triển khai…

Thứ ba, tiếp tục tái cơ cấu toàn diện các tổ chức tài chính, đặc biệt là hệ thống các TCTD

Tiếp tục cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với trọng tâm là xử lý căn bản, triệt để nợ xấu và các TCTD yếu kém bằng các hình thức phù hợp với cơ chế thị trường trên nguyên tắc thận trọng, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và giữ vững sự ổn định, an toàn hệ thống. Phấn đấu đưa tỷ lệ nợ xấu thấp hơn 3%. Cơ cấu lại tổ chức kinh doanh chứng khoán thông qua việc tiến hành rà soát, đánh giá phân loại các tổ chức này theo chất lượng tài chính và khả năng cung cấp dịch và trên cơ sở mức độ rủi ro đối với thị trường...

Thứ tư, tăng cường và phát huy vai trò của các định chế tài chính nhà nước nhằm phát triển sâu TTTC

Phát triển và nâng cao năng lực các định chế tài chính nhà nước như: Ngân hàng Phát triển Việt Nam, Ngân hàng chính sách xã hội... để các tổ chức này có thể tham gia và đóng góp sâu hơn vào các hoạt động trên TTTC. Trong đó, ưu tiên nâng cao năng lực huy động vốn, nhất là huy động vốn thông qua TTTC. Đẩy mạnh thực hiện tái cơ cấu toàn diện các định chế tài chính nhà nước. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động tín dụng của các định chế tài chính nhà nước nhằm đảm bảo các tổ chức này hoạt động đúng mục tiêu, hạn chế rủi ro...

Thứ năm, tăng cường công tác thanh tra, giám sát, đảm bảo an toàn hệ thống

Củng cố và nâng cao năng lực giám sát dựa trên rủi ro theo hướng xây dựng hệ thống giám sát dựa trên rủi ro, cảnh báo sớm rủi ro, cơ chế xử lý khủng hoảng hệ thống và xử lý các định chế tài chính tiềm ẩn rủi ro cao nhằm bảo vệ sự an toàn của hệ thống tài chính. Nâng cao chất lượng công tác thanh tra, từng bước thiết lập kỷ luật thị trường, cưỡng chế thực thi các quy định pháp lý, nâng cao chế tài xử phạt đối với các hành vi vi phạm trên TTTC (thao túng thị trường, giao dịch nội gián, trục lợi bảo hiểm…).

Thứ sáu, từng bước phát triển cơ sở hạ tầng tài chính theo hướng phát triển chung của thế giới

Tiếp tục hoàn thiện hệ thống các quy định pháp lý, hướng tới các chuẩn mực quốc tế tốt nhất mà phù hợp với trình độ phát triển của TTTC Việt Nam như việc áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS, IFRS), nguyên tắc quản trị điều hành... Nghiên cứu, áp dụng các thành tựu mới của Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 như: xử lý dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, công nghệ chuỗi khối... vào quá trình thu thập, phân tích, nhận định và dự báo kịp thời những vấn đề liên quan đến TTTC. Nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng, tạo điều kiện cho sự phát triển của thị trường tiền tệ.../.