Từ khóa: trái phiếu xanh, trái phiếu doanh nghiệp xanh, biến đổi khí hậu

Summary

With the increasing risks from climate change, green bonds, especially corporate green bonds, have begun to receive more attention and have the potential to develop in Vietnam. The study presents the concept and benefits of corporate green bonds and clearly states the green bond principles established by ICMA (International Capital Market Association). The study also presents the legal framework regulating the issuance of corporate green bonds and the current situation of issuance of this type of bond; thereby, analyzing the opportunities and challenges and proposing policy implications to help rapidly develop corporate green bonds in Vietnam.

Keywords: green bonds, corporate green bonds, climate change

GIỚI THIỆU

Trong những năm gần đây, biến đổi khí hậu đã trở thành vấn đề nóng và rất được quan tâm, vì mức độ phức tạp của biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng. Tần suất xuất hiện của những hiện tượng thời tiết cực đoan cũng ngày càng nhiều hơn và những thiệt hại do biến đổi khí hậu gây ra cũng ngày càng trầm trọng hơn. Chính vì thế, nhiều quốc gia trên thế giới đã đưa ra những giải pháp ứng phó với rủi ro từ biến đổi khí hậu. Một trong những giải pháp phổ biến hiện nay là phát hành trái phiếu xanh để đầu tư vào các dự án bảo vệ môi trường hay các dự án ứng phó và thích nghi với rủi ro biến đổi khí hậu. Theo ICMA (2024), chỉ trong 3 năm, doanh số phát hành trái phiếu xanh trên toàn thế giới tăng hơn gấp đôi, từ 228,2 tỷ USD vào năm 2020 đến 495,1 tỷ USD vào năm 2023. Trong khi đó, doanh số phát hành trái phiếu nói chung trên toàn thế giới là 9.112 tỷ USD trong năm 2020 và 6.682 tỷ USD trong năm 2023. Như vậy, tỷ trọng của trái phiếu xanh trong tổng doanh số trái phiếu trên toàn thế giới đã tăng từ 2,5% vào năm 2020 lên 7,4% vào năm 2023. Điều này cho thấy, trái phiếu xanh bắt đầu tăng trưởng mạnh mẽ, nhưng tỷ trọng còn rất thấp, vì thế vẫn còn nhiều tiềm năng phát triển trong tương lai trên phạm vi toàn thế giới.

Tại Việt Nam, với địa hình đa dạng, rủi ro từ biến đổi khí hậu cũng ngày càng nghiêm trọng hơn. Vì vậy, Chính phủ rất quan tâm và đã ban hành nhiều kế hoạch, chính sách về tăng trưởng xanh, tài chính xanh, bao gồm cả việc phát triển trái phiếu xanh để thích nghi và hạn chế rủi ro từ biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, việc triển khai trái phiếu xanh tại Việt Nam vẫn chủ yếu đến từ trái phiếu xanh do Chính phủ và chính quyền địa phương phát hành, còn trái phiếu xanh do doanh nghiệp phát hành vẫn chưa được quan tâm và thực hiện đúng mức. Do đó, nghiên cứu về những cơ hội và thách thức để phát triển trái phiếu doanh nghiệp xanh tại Việt Nam, từ đó nhìn thấy được tiềm năng phát triển chúng là điều rất cần thiết.

TỔNG QUAN VỀ TRÁI PHIẾU DOANH NGHIỆP XANH

Khái niệm

ICMA (2018) đã định nghĩa trái phiếu xanh là bất kỳ loại công cụ trái phiếu nào trong đó nguồn vốn thu được từ phát hành trái phiếu xanh sẽ chỉ được sử dụng để tài trợ hoặc tái cấp vốn, một phần hoặc toàn bộ, cho các dự án xanh mới và/ hoặc có sẵn mà đủ điều kiện về tiêu chí xanh. Trong khi đó, Điều 150 Luật Bảo vệ Môi trường của Việt Nam đã đưa ra định nghĩa cụ thể hơn khi cho rằng, trái phiếu xanh là trái phiếu do Chính phủ, chính quyền địa phương, doanh nghiệp phát hành theo quy định của pháp luật về trái phiếu để huy động vốn cho hoạt động bảo vệ môi trường, dự án đầu tư mang lại lợi ích về môi trường.

Như vậy, 2 định nghĩa về trái phiếu xanh nêu trên đều có điểm tương đồng là huy động vốn để tài trợ cho các dự án xanh, thân thiện với môi trường và góp phần bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, định nghĩa trái phiếu xanh trong Luật Bảo vệ Môi trường 2020 của Việt Nam đã nêu rõ các tổ chức phát hành trái phiếu xanh gồm: Chính phủ, chính quyền địa phương và doanh nghiệp.

Còn tại Điều 4 của Nghị định số 153/2020/NĐ-CP (ngày 31/12/2020 của Chính phủ quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế), thì trái phiếu doanh nghiệp xanh được định nghĩa “là trái phiếu doanh nghiệp được phát hành để đầu tư cho dự án thuộc lĩnh vực bảo vệ môi trường, dự án mang lại lợi ích về môi trường theo quy định của pháp luật bảo vệ môi trường”. Từ đây, có thể hiểu rằng, trái phiếu doanh nghiệp xanh là trái phiếu thỏa mãn 2 tiêu chí: (i) Do doanh nghiệp phát hành; (ii) Nguồn vốn thu được dùng để đầu tư vào các dự án mang lại lợi ích về môi trường.

Lợi ích của trái phiếu doanh nghiệp xanh

Đối với nhà đầu tư, trái phiếu doanh nghiệp xanh: (i) Có lợi suất cạnh tranh, giúp nhà đầu tư tìm kiếm cơ hội sinh lợi; (ii) Tạo điều kiện đa dạng hóa danh mục đầu tư, giảm rủi ro và tạo ra thu nhập ổn định cho nhà đầu tư từ các nguồn thu khác nhau; (iii) Giúp nhà đầu tư góp phần giải quyết các vấn đề môi trường và biến đổi khí hậu, tạo ra giá trị gia tăng cho cộng đồng.

Đối với doanh nghiệp phát hành trái phiếu, trái phiếu doanh nghiệp xanh đem lại nhiều lợi ích như: (i) Đầu tư vào các dự án xanh giúp doanh nghiệp tăng cường được danh tiếng, thu hút sự quan tâm và lòng tin từ cộng đồng, khách hàng, và nhà đầu tư; (ii) Gia tăng tính minh bạch của doanh nghiệp do phát hành trái phiếu xanh đòi hỏi nguyên tắc minh bạch phải được đặt lên hàng đầu; (iii) Mở ra cơ hội cho doanh nghiệp tiếp cận các nguồn vốn mới từ các nhà đầu tư có mối quan tâm về phát triển bền vững; (iv) Tạo điều kiện cho doanh nghiệp góp phần phát triển kinh tế và xã hội do đầu tư vào các dự án xanh giúp bảo vệ môi trường, xây dựng nên tương lai bền vững cho quốc gia.

Nguyên tắc trái phiếu xanh của ICMA

Nguyên tắc trái phiếu xanh (Green Bond Principles) là cách gọi tắt của bộ nguyên tắc phát hành và sử dụng nguồn thu từ trái phiếu xanh do ICMA ban hành. Nguyên tắc này khuyến nghị áp dụng các nguyên tắc về tính minh bạch, công bố thông tin và cơ chế báo cáo nhằm thúc đẩy các tổ chức phát hành cung cấp thông tin trung thực khi phát hành trái phiếu doanh nghiệp xanh. Nguyên tắc trái phiếu xanh gồm 4 cấu phần chính như sau:

(i) Sử dụng nguồn vốn thu được từ phát hành trái phiếu xanh. Khi phát hành trái phiếu xanh, cần mô tả phù hợp việc sử dụng nguồn vốn này cho các dự án xanh trong các tài liệu pháp lý. Bên cạnh đó, có thể sử dụng toàn bộ hay một phần nguồn vốn thu được từ phát hành trái phiếu xanh để tiếp tục tái cấp vốn các dự án xanh. Tổ chức phát hành cần ước tính tỷ lệ giữa nguồn tiền sử dụng cho hoạt động cấp vốn so với hoạt động tái cấp vốn. Đồng thời, tổ chức phát hành trái phiếu xanh cũng cần đánh giá và định lượng các lợi ích môi trường mà các dự án xanh mang lại.

(ii) Quy trình đánh giá và lựa chọn dự án. Tổ chức phát hành trái phiếu xanh cần trình bày quy trình đánh giá và lựa chọn dự án trong mối liên hệ với chính sách hướng tới môi trường bền vững của tổ chức và phải công bố một số nội dung gồm các mục tiêu môi trường bền vững, quy trình thực hiện để xác định tính phù hợp của dự án cần huy động, các tiêu chí xét duyệt dự án khác. Tổ chức phát hành cần bổ sung ý kiến của bên thứ ba độc lập trong quy trình đánh giá và lựa chọn dự án để đảm bảo tính minh bạch.

(iii) Chính sách quản lý nguồn vốn thu được từ phát hành trái phiếu xanh. Nguồn vốn ròng thu được từ phát hành trái phiếu xanh phải được ghi nhận vào một tài khoản riêng biệt, hay được chuyển sang một danh mục riêng. Đồng thời, tổ chức phát hành cần thực hiện quy trình kiểm soát nội bộ liên quan đến hoạt động đi vay và đầu tư vào các dự án xanh để chứng thực việc quản lý, sử dụng nguồn vốn này. Tổ chức phát hành cũng cần thông báo cho nhà đầu tư kế hoạch quản lý dự kiến đối với nguồn vốn chưa được phân phối. Để đảm bảo tính minh bạch, tổ chức phát hành cần sử dụng đơn vị kiểm toán hoặc bên thứ ba độc lập thực hiện công tác kiểm tra tình hình phân bổ nguồn vốn thu được từ phát hành trái phiếu xanh.

(iv) Chế độ báo cáo. Tổ chức phát hành cần lưu giữ và sẵn sàng cung cấp thông tin đầy đủ về tình hình sử dụng nguồn vốn thu được từ phát hành trái phiếu xanh. Các thông tin này cần được cập nhật hàng năm và cập nhật kịp thời nếu có những thay đổi quan trọng cho đến khi nguồn vốn được phân bổ hết. Báo cáo thường niên nên bao gồm các nội dung về danh sách các dự án xanh được tài trợ từ nguồn vốn thu được, cũng như mô tả ngắn gọn về các dự án, số tiền được phân bổ cho các dự án, tác động dự kiến đến môi trường của các dự án.

CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA VIỆT NAM VỀ PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU DOANH NGHIỆP XANH

Việt Nam chưa có các văn bản pháp lý quy định riêng cho trái phiếu xanh nói chung và trái phiếu doanh nghiệp xanh nói riêng. Hiện tại chỉ có một vài văn bản pháp lý có đề cập đến phát hành và quản lý trái phiếu doanh nghiệp xanh tại Việt Nam.

Thứ nhất, Luật Bảo vệ môi trường ban hành năm 2020. Tại Điều 150 của Luật này có nêu rõ: chủ thể phát hành trái phiếu xanh gồm: Chính phủ, chính quyền địa phương và các doanh nghiệp; nguồn tiền thu được từ phát hành trái phiếu xanh phải được sử dụng cho các dự án mang lại lợi ích về môi trường; chủ thể phát hành phải cung cấp thông tin cho nhà đầu tư về đánh giá tác động môi trường, giấy phép môi trường của dự án và kế hoạch sử dụng nguồn vốn; chủ thể phát hành và nhà đầu tư mua trái phiếu xanh được hưởng ưu đãi theo quy định của pháp luật.

Thứ hai, Chính phủ ban hành một số văn bản pháp lý điều chỉnh trái phiếu doanh nghiệp, gồm: Nghị định số 153/2020/NĐ-CP quy định về phát hành, chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp cùng Nghị định số 65/2022/NĐ-CP, ngày 23/8/2023 và Nghị định số 08/2023/NĐ-CP, ngày 05/3/2023 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 153/2020/NĐ-CP. Trong đó, các nghị định này có đề cập đến nguyên tắc phát hành, sử dụng vốn và công bố thông tin đối với phát hành trái phiếu doanh nghiệp xanh. Việc tổ chức phát hành, đăng ký, lưu ký, niêm yết và giao dịch trái phiếu doanh nghiệp xanh thực hiện như đối với trái phiếu doanh nghiệp thông thường. Riêng nguồn vốn từ phát hành trái phiếu doanh nghiệp xanh phải được hạch toán, quản lý theo dõi riêng và giải ngân cho các dự án mang lại lợi ích về môi trường theo phương án phát hành đã được phê duyệt. Khi công bố thông tin, ngoài nội dung công bố như đối với trái phiếu doanh nghiệp thông thường, doanh nghiệp phát hành còn phải công bố về quy trình hạch toán, quản lý, giải ngân vốn từ chào bán trái phiếu doanh nghiệp xanh, đồng thời phải lập báo cáo về việc hạch toán, quản lý sử dụng vốn từ phát hành trái phiếu có ý kiến soát xét của tổ chức kiểm toán, báo cáo tiến độ giải ngân, tiến độ thực hiện dự án và báo cáo đánh giá tác động môi trường.

THỰC TRẠNG PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU DOANH NGHIỆP XANH TẠI VIỆT NAM

Tại Việt Nam, trái phiếu xanh chưa được quan tâm nhiều trong các năm qua. Trong đó, việc phát hành trái phiếu xanh chủ yếu tập trung vào các loại trái phiếu chính phủ xanh và trái phiếu chính quyền địa phương xanh, còn trái phiếu doanh nghiệp xanh khá hiếm, chỉ có 2 trường hợp phát hành trong năm 2022 và 2023 gần đây. Cụ thể: Tháng 7/2022, Công ty Tài chính Cổ phần Điện lực (EVNFinance) đã thực hiện đợt phát hành trái phiếu xanh đầu tiên tại Việt Nam dựa trên cơ sở nguyên tắc trái phiếu xanh của ICMA, trị giá 73,7 triệu USD với lãi suất 6,7%/năm, kỳ hạn 10 năm (Nguyễn Hồng Nhung, 2024). Đợt phát hành này được bảo lãnh một phần bởi Guarant Co. Ltd. là một công ty dịch vụ bảo lãnh đa quốc gia với giá trị 50 triệu USD (FPT Digital, 2024). EVNFinance phát hành trái phiếu dài hạn nhằm ổn định cơ cấu vốn đối với các dự án xanh do công ty tài trợ. Thực tế, với các dự án năng lượng xanh, năng lượng tái tạo, thời gian đầu tư và thu hồi vốn của các doanh nghiệp lên đến 7 năm. Do đó, để đồng hành cùng doanh nghiệp, EVNFinance cần nguồn vốn ổn định và bền vững với kỳ hạn tương ứng. Với đợt phát hành này của EVNFinance, lần đầu tiên tại Việt Nam có một đợt phát hành trái phiếu được bảo lãnh bởi tổ chức quốc tế uy tín, giúp đảm bảo an toàn cho các nhà đầu tư trong lĩnh vực năng lượng xanh, mở ra hướng phát triển cho các dự án xanh. Đồng thời, đợt phát hành này cũng được đánh giá là "cú hích" lớn đối với thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh của Việt Nam vốn còn mới mẻ.

Tiếp theo, tháng 10 /2023, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) là ngân hàng đầu tiên tại Việt Nam phát hành thành công trái phiếu xanh theo nguyên tắc trái phiếu xanh của ICMA với trị giá lên tới 2.500 tỷ đồng. Vốn huy động được sử dụng để tài trợ các dự án xanh, tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải khí nhà kính và bảo vệ môi trường, phù hợp với Khung trái phiếu xanh của BIDV. Đây là lần đầu tiên thị trường vốn Việt Nam chứng kiến đợt phát hành trái phiếu trong nước có Khung trái phiếu xanh được xếp hạng cao bởi tổ chức xếp hạng tín nhiệm hàng đầu Moody’s (FPT Digital, 2024). Việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp xanh tại Việt Nam còn hiếm hoi cho thấy trái phiếu doanh nghiệp xanh chưa được quan tâm đúng mức và có nhiều dư địa phát triển.

CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỂ PHÁT TRIỂN TRÁI PHIẾU DOANH NGHIỆP XANH TẠI VIỆT NAM

Cơ hội

(i) Trái phiếu xanh bao gồm cả trái phiếu doanh nghiệp xanh đang ngày càng được quan tâm và phát triển mạnh mẽ trên toàn thế giới. Các sản phẩm và dự án thân thiện với môi trường hay thích nghi với biến đổi khí hậu được chú ý ngày càng nhiều bởi Chính phủ và người dân. Đây là cơ hội để trái phiếu doanh nghiệp xanh tài trợ các dự án vì lợi ích môi trường phát triển mạnh mẽ. Theo Nguyễn Hồng Nhung (2024), ở góc độ toàn cầu, trái phiếu xanh tăng trưởng rất tích cực trong 5 năm gần đây, đà tăng trưởng của trái phiếu xanh giữ vững ở mức 10 - 15% /năm. Xu hướng phát triển trái phiếu doanh nghiệp xanh trên thế giới là nền tảng để phát triển thị trường này tại Việt Nam.

(ii) Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp lý định hướng phát triển trái phiếu xanh gồm trái phiếu doanh nghiệp xanh nhằm thúc đẩy thực hiện các dự án xanh và hiện thực hóa cam kết về mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Cụ thể, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 101/2021/TT-BTC, ngày 17/11/2021 quy định giá dịch vụ trong lĩnh vực chứng khoán áp dụng tại Sở giao dịch chứng khoán và Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam, trong đó có quy định ưu đãi đối với trái phiếu xanh là giảm 50% mức giá dịch vụ đăng ký niêm yết, giá giao dịch, giá đăng ký chứng khoán, hủy đăng ký chứng khoán một phần và giá lưu ký chứng khoán. Dưới định hướng ủng hộ của Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp xanh tại Việt Nam có nhiều cơ hội phát triển và sẽ gia tăng mạnh mẽ do Việt Nam chỉ mới ở giai đoạn khởi đầu.

Thách thức

Một là, thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh còn non trẻ, đặc biệt là ở các nước đang phát triển như Việt Nam. Các khái niệm tăng trưởng xanh, tài chính xanh, tín dụng xanh vẫn còn mới mẻ, dẫn đến sự nhận thức của các nhà đầu tư và các doanh nghiệp trong nước đối với lợi ích đầu tư, phát hành trái phiếu doanh nghiệp xanh còn hạn chế. Vì thế, nhu cầu đầu tư trái phiếu doanh nghiệp xanh của nhà đầu tư trong nước còn thấp, chủ yếu là nhu cầu của nhà đầu tư tổ chức nước ngoài.

Hai là, trái phiếu doanh nghiệp xanh đối mặt nhiều bất lợi do các dự án chuyển đổi xanh có thời gian hoàn vốn dài và không chắc chắn trong khả năng tạo ra dòng tiền tương lai do các công nghệ phát thải thấp có chi phí đắt đỏ. Đồng thời, nhà đầu tư còn gặp rủi ro, vì khó đánh giá các dự án xanh, do họ thiếu kinh nghiệm và dữ liệu lịch sử. Những điều này khiến nhà đầu tư thận trọng khi đầu tư trái phiếu doanh nghiệp xanh. Về phía các doanh nghiệp phát hành, họ phải chấp nhận chi phí phát hành trái phiếu doanh nghiệp xanh cao hơn trái phiếu doanh nghiệp thông thường do phát sinh thêm các chi phí tư vấn và đánh giá độc lập để xếp hạng tín nhiệm và chứng nhận dự án xanh. Điều này khiến các doanh nghiệp e ngại và làm giảm động lực phát hành.

Ba là, hiện tại, Việt Nam chưa có văn bản pháp lý dành riêng cho trái phiếu xanh và trái phiếu doanh nghiệp xanh, mới chỉ có các văn bản pháp lý dành cho trái phiếu thông thường có lồng ghép một vài quy định cho trái phiếu xanh. Điều này khiến cho việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp xanh còn gặp nhiều trở ngại về mặt pháp lý. Chẳng hạn, Việt Nam hiện chưa có danh mục phân loại xanh đầy đủ để làm căn cứ pháp lý trong việc xác định các tiêu chí môi trường theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường đối với các dự án xanh, từ đó giúp các các bên tham gia nhận diện và phân loại dự án xanh. Chính phủ cũng chưa có nhiều chính sách hỗ trợ và khuyến khích để phát triển trái phiếu doanh nghiệp xanh.

Bốn là, các sản phẩm trái phiếu doanh nghiệp xanh chưa đa dạng về lãi suất, kỳ hạn và mức độ rủi ro để đáp ứng nhu cầu đa dạng của các nhà đầu tư và doanh nghiệp phát hành, đồng thời cũng chưa có các sản phẩm phái sinh liên quan đến loại trái phiếu này. Điều này làm giảm động lực và sức hút để các bên tham gia trái phiếu doanh nghiệp xanh. Thêm vào đó, thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh vẫn còn thiếu vắng sự hoạt động của các tổ chức trung gian cung cấp dịch vụ như tổ chức xếp hạng tín nhiệm hoặc tổ chức đánh giá độc lập, cũng như sàn giao dịch trái phiếu vẫn chưa phát triển, dẫn đến các đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp xanh ở trong nước đều phải tìm đến sự hỗ trợ của các tổ chức nước ngoài.

HÀM Ý CHÍNH SÁCH ĐỂ PHÁT TRIỂN TRÁI PHIẾU DOANH NGHIỆP XANH TẠI VIỆT NAM

Thứ nhất, Chính phủ cần hoàn thiện khung pháp lý về trái phiếu xanh gồm có trái phiếu doanh nghiệp xanh bằng cách chuẩn hóa các khái niệm về trái phiếu xanh, trái phiếu doanh nghiệp xanh và dự án xanh, cùng với khung pháp lý rõ ràng về phát hành trái phiếu doanh nghiệp xanh và vai trò của các tổ chức đánh giá độc lập. Cụ thể hơn, Chính phủ cần xây dựng bộ danh mục phân loại xanh tiệm cận với tiêu chuẩn của khu vực và thế giới, thuận tiện cho doanh nghiệp phát hành thu hút được đầu tư trong và ngoài nước theo cùng hệ quy chuẩn khi triển khai dự án. Đồng thời, Chính phủ cần ban hành các hướng dẫn về báo cáo sau phát hành nhằm giúp cho hoạt động giám sát vốn huy động từ trái phiếu doanh nghiệp xanh được hiệu quả.

Thứ hai, Chính phủ cần nâng cao nhận thức của doanh nghiệp và nhà đầu tư về lợi ích, vai trò của trái phiếu doanh nghiệp xanh nhằm phát triển thị trường này. Để nâng cao nhận thức, Chính phủ cần thực hiện các chiến dịch truyền thông mạnh mẽ để tuyên truyền cho doanh nghiệp, nhà đầu tư về lợi ích kinh tế và môi trường từ việc tham gia thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh. Việc nâng cao nhận thức giúp nhà đầu tư có thể đánh giá rủi ro, tiềm năng lợi nhuận và đưa ra quyết định đầu tư sáng suốt, cũng như giúp doanh nghiệp tăng cường khả năng tiếp cận thị trường vốn xanh. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng cần phát triển nguồn nhân lực có chuyên môn sâu về trái phiếu doanh nghiệp xanh cho cơ quan quản lý để giám sát và điều chỉnh thị trường này đi đúng hướng.

Thứ ba, Chính phủ nên ban hành các chính sách hỗ trợ và khuyến khích các bên liên quan tham gia thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh nhằm tạo động lực thúc đẩy thị trường phát triển. Chính phủ cần thiết lập chính sách hỗ trợ và ưu đãi lãi suất, thuế, phí cho doanh nghiệp phát hành và nhà đầu tư trái phiếu doanh nghiệp xanh. Đồng thời, Chính phủ cũng cần xem xét loại bỏ ưu đãi thuế, phí đối với những ngành nghề, lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro môi trường. Thêm vào đó, khi ban hành các chính sách ưu đãi, Chính phủ cần quy định các cấp độ tiêu chí xanh tương ứng với các mức độ ưu đãi khác nhau.

Thứ tư, Chính phủ cần đa dạng hóa các sản phẩm trái phiếu doanh nghiệp xanh và phát triển cơ sở hạ tầng của thị trường này, đảm bảo thị trường trở thành kênh huy động vốn quan trọng cho các dự án xanh. Chính phủ cần phát triển cơ sở hạ tầng của thị trường thông qua việc đảm bảo sự đa dạng của các tổ chức phát hành và các tổ chức cung cấp dịch vụ trung gian. Chính phủ nên phát triển các sản phẩm trái phiếu xanh với lãi suất, kỳ hạn và mức độ rủi ro khác nhau đáp ứng nhu cầu đa dạng của doanh nghiệp và nhà đầu tư, đồng thời phát triển các chỉ số và sản phẩm phái sinh liên quan đến loại trái phiếu này nhằm giúp doanh nghiệp quản lý rủi ro tốt hơn và nhà đầu tư có nhiều lựa chọn đầu tư hơn, cũng như thu hút thêm các nhà đầu tư khác tham gia thị trường.

Thứ năm, Chính phủ cần tăng cường hợp tác quốc tế trong công tác xây dựng và phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh, giúp Việt Nam rút ngắn thời gian phát triển thị trường. Khi hợp tác với nhiều quốc gia, doanh nghiệp và nhà đầu tư có thể chia sẻ kinh nghiệm cũng như học hỏi các thông lệ tốt nhất của thị trường. Chính phủ cũng cần có giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp phát hành trái phiếu xanh trên thị trường quốc tế nhằm tiếp cận nguồn vốn tài chính xanh quốc tế dồi dào và đa dạng./.

Tài liệu tham khảo

1. Bộ Tài chính (2021), Thông tư số 101/2021/TT-BTC, ngày 17/11/2021 về quy định giá dịch vụ trong lĩnh vực chứng khoán áp dụng tại Sở giao dịch chứng khoán và Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam.

2. Chính phủ (2020), Nghị định số 153/2020/NĐ-CP, ngày 31/12/2020 Quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế.

3. Chính phủ (2022), Nghị định số 65/20202NĐ-CP, ngày 16/09/2022 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 153/2020/NĐ-CP, ngày 31/12/2020 quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế.

4. Chính phủ (2023), Nghị định số 08/2023/NĐ-CP, ngày 05/03/2023 sửa đổi, bổ sung và ngưng hiệu lực thi hành một số điều tại các Nghị định quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế.

5. FPT Digital (2024), Thúc đẩy phát triển bền vững thông qua thị trường trái phiếu xanh, truy cập tại https://www.linkedin.com/pulse/th%C3%BAc-%C4%91%E1%BA% A9y-ph%C3%A1t-tri%E1%BB%83n-b%E1%BB%81n-v%E1%BB%AFng-th%C 3%B4ng-qua-th%E1%BB%8B-tr%C6%B0%E1%BB%9Dng-tr%C3%A1i-phi%E1 %BA%BFu-uiy7c, truy cập ngày 08/09/2024.

6. ICMA (2018), The green bond principles – Vietnamese 2018 edition.

7. ICMA (2024), Evolution of green bond issuance.

8. Nguyễn Hồng Nhung (2024), Gỡ vướng cho trái phiếu xanh, truy cập từ https://www.nguoiduatin.vn/go-vuong-cho-trai-phieu-xanh-204661681.htm.

9. VBMA (2024), Báo cáo thị trường trái phiếu Việt Nam 2023.

TS. Trần Vương Thịnh

Khoa Ngân hàng - Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh

(Theo Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 01, tháng 01/2025)