Dư địa chính sách cho đổi mới, sáng tạo còn rất nhiều
TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) đã nhấn mạnh như vậy tại Hội thảo “Kinh tế Việt Nam năm 2024 và triển vọng năm 2025: Đổi mới, sáng tạo và hội nhập trong kỷ nguyên mới” ngày 14/1/2025.
TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) đã nhấn mạnh như vậy tại Hội thảo “Kinh tế Việt Nam năm 2024 và triển vọng năm 2025: Đổi mới, sáng tạo và hội nhập trong kỷ nguyên mới” ngày 14/1/2025. |
Thành tựu kinh tế - xã hội toàn diện trong năm 2024 đã khẳng định cách tiếp cận đúng đắn, linh hoạt của Việt Nam
Khai mạc hội thảo, TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng CIEM nhận định, kinh tế toàn cầu đã phục hồi rõ nét trong năm 2024, đặc biệt là trong 6 tháng cuối năm. Đà phục hồi ấy được hưởng lợi nhờ kinh tế Mỹ tăng trưởng khá tích cực, xu hướng nới lỏng tiền tệ của ngân hàng trung ương ở hầu hết các nền kinh tế chủ chốt, hay chuyển biến nhanh chưa từng có tiền lệ của các công nghệ mới (đặc biệt là trí tuệ nhân tạo - AI).
Dù vậy, kinh tế thế giới cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức do xung đột địa chính trị diễn biến phức tạp ở nhiều khu vực, gia tăng bất ổn về chính sách sau bầu cử, chủ nghĩa bảo hộ, biến đổi khí hậu và các điều kiện thời tiết cực đoan, gia tăng các quy định về phát triển bền vững ở nhiều quốc gia.
Việt Nam bước vào năm 2024 với khá nhiều thận trọng, trong bối cảnh kinh tế thế giới dự báo có nhiều khó khăn, thách thức hơn thuận lợi, cơ hội. Bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến không thuận, bao gồm xung đột địa chính trị tiếp diễn ở nhiều khu vực (Nga-Ucraina, Trung Đông, Biển Đỏ), cạnh tranh chiến lược về khoa học, công nghệ, thương mại giữa các nước lớn (đặc biệt là giữa Mỹ và Trung Quốc), gia tăng bất ổn về chính sách do bầu cử ở nhiều nước, chủ nghĩa bảo hộ gia tăng, biến đổi khí hậu và các hiện tượng thời tiết cực đoan, gia tăng các quy định về phát triển bền vững có ảnh hưởng đến hàng hóa nhập khẩu ở nhiều quốc gia…
Dù vậy, trên nền tảng ổn định kinh tế vĩ mô và có “dư địa” để điều hành các chính sách tài khóa và tiền tệ, Việt Nam đã nhanh chóng chuyển sang thúc đẩy tăng trưởng kinh tế một cách mạnh mẽ. Ngay cả sau khi hứng chịu tác động nặng nề của cơn bão số 3, Việt Nam đã quyết liệt thực hiện các giải pháp khắc phục hậu quả của bão, ổn định đời sống của nhân dân, và thúc đẩy các hoạt động kinh tế ở các địa phương chịu ảnh hưởng. Những thành tựu kinh tế - xã hội toàn diện trong năm 2024 đã khẳng định cách tiếp cận đúng đắn, toàn diện, linh hoạt, thực dụng của Việt Nam.
“Thời điểm này năm ngoái, chúng ta còn đang nhìn nhận mục tiêu tăng trưởng kinh tế của Quốc hội cho năm 2024 (từ 6-6,5%) là rất thách thức, khó khăn. Tuy nhiên, trên cơ sở đánh giá đúng tình hình, Việt Nam đã chuyển nhanh sang thực hiện các giải pháp toàn diện để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, gắn với giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, đặc biệt là trong 6 tháng cuối năm”, bà Minh lý giải sự thành công trong tăng trưởng Việt Nam.
Nhờ đó, Việt Nam đã đạt được những kết quả kinh tế - xã hội ấn tượng, toàn diện. Kinh tế Việt Nam đã phục hồi tăng trưởng rõ nét hơn trong 2 quý cuối năm 2024, tăng trưởng quý sau cao hơn quý trước, phản ánh nỗ lực của Việt Nam trong công tác khắc phục hậu quả của siêu bão Yagi. GDP tăng 7,43% trong quý III/2024, và tăng 7,55% trong quý IV/2024. Tính chung cả năm 2024, tăng trưởng GDP ước đạt 7,09%.
Theo khu vực, tổng giá trị tăng thêm của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,27%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,24%; khu vực dịch vụ tăng 7,38%. Sản xuất công nghiệp tiếp tục phục hồi tích cực, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) ước tăng 8,4% trong năm 2024 (năm 2023 chỉ tăng 1,3%).
Năng suất lao động (NSLĐ) toàn nền kinh tế theo giá hiện hành năm 2024 đạt 221,9 triệu đồng/lao động (tương đương 9.182 USD/lao động). Theo giá so sánh, năng suất lao động tăng khoảng 5,88%, cao hơn mục tiêu Quốc hội đề ra cho năm 2024 (tăng 4,8-5,3%).
Trình độ người lao động tiếp tục được cải thiện, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ trong năm 2024 tăng 1,1% so với năm 2023. Theo kết quả sơ bộ Khảo sát mức sống dân cư năm 2024, thu nhập bình quân đầu người (theo giá hiện hành) năm 2024 đạt khoảng 5,4 triệu đồng/người/tháng, tăng 8,8%.
CPI bình quân năm 2024 tăng 3,63%, cho thấy lạm phát vẫn được kiểm soát tốt, phù hợp với mục tiêu Quốc hội đề ra là 4-4,5%. Lạm phát cơ bản bình quân đạt 2,71% năm 2024. Việt Nam đã kiểm soát thành công lạm phát trong năm 2024 nhờ các yếu tố khách quan lẫn chủ quan như: (i) lạm phát toàn cầu hạ nhiệt giúp giảm áp lực nhập khẩu lạm phát; (ii) các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp giúp giảm chi phí sản xuất; (iii) việc kịp thời triển khai các giải pháp ứng phó với cơn bão số 3, hạn chế tăng giá quá mức các mặt hàng thiết yếu; và (iv) công tác điều hành chính sách tiền tệ được thực hiện hiệu quả, giúp ổn định tỷ giá một cách tương đối và lãi suất duy trì ở mức tương đối hợp lý, qua đó giảm áp lực cho hoạt động sản xuất – kinh doanh.
Tính chung cả năm 2024, vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội ước đạt 3.692,1 nghìn tỷ đồng, tăng 7,5%, cao hơn mức tăng 6,6% của năm 2023. Nếu loại bỏ yếu tố tăng giá, mức tăng vốn đầu tư năm 2024 ước đạt 3,73%. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục có chuyển biến. Tổng vốn thực hiện của các dự án FDI đạt tới 25,35 tỷ USD trong năm 2024, tăng 9,4% so với năm 2023. Các đối tác đầu tư lớn nhất trong năm 2024 vẫn là các nền kinh tế ở châu Á như Xinh-ga-po, Hàn Quốc, Trung Quốc, Hồng Kông (Trung Quốc).
Dù phải đối mặt với các vụ kiện phòng vệ thương mại và quy định khó khăn hơn ở thị trường nước ngoài, xuất nhập khẩu tiếp tục có đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế năm 2024. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả năm 2024 ước đạt 786,29 tỷ USD, tăng 15,4%. Thặng dư thương mại hàng hóa đạt 24,77 tỷ USD. Xuất khẩu ước đạt 405,53 tỷ USD, tăng 14,3%,kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang các đối tác thương mại lớn tiếp tục tăng trưởng tích cực. Mỹ, Trung Quốc, EU và ASEAN là các thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam đạt 380,8 tỷ USD, tăng 16,7%. Trung Quốc và ASEAN là những nguồn hàng nhập khẩu lớn nhất và có tốc độ tăng nhanh trong năm 2024.
Nỗ lực thúc đẩy ký kết các hiệp định thương mại tự do (FTA) đã giúp Việt Nam mở rộng tiếp cận đến các thị trường tiềm năng. Trong năm 2024, Việt Nam đã ký kết CEPA với UAE, không chỉ mở ra cơ hội tiếp cận một thị trường tiềm năng lớn ở khu vực Trung Đông và Châu Phi. Thương mại điện tử (TMĐT) đã đạt được những bước tiến vượt bậc, với doanh thu hơn 25 tỷ USD, tăng trưởng tới 20%.
Quan trọng hơn, niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp và người dân vào triển vọng kinh tế trở nên tích cực hơn, thể hiện phần nào qua các con số như vốn FDI thực hiện đạt tới 25,35 tỷ USD, kiều hối ước đạt tới 16 tỷ USD.
Dư địa chính sách cho đổi mới, sáng tạo còn rất nhiều
Dự báo tình hình thế giới và khu vực trong năm 2025 khá phức tạp. Tại thời điểm này, các kịch bản xung quanh việc Mỹ gia tăng các biện pháp thuế quan và các công cụ chính sách thương mại khác còn nhiều bất định. Bất ổn chính trị ở nhiều nước cũng ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng thúc đẩy đối thoại, hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là đầu tư, thương mại, chuyển đổi xanh...
"Khoa học – công nghệ đang phát triển nhanh, nhưng tác động đối với thay thế việc làm của con người và phân bổ lao động quốc tế đang dần hiện hữu. Trong bối cảnh ấy, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô và ổn định xã hội là một yêu cầu cần thiết, song “không dễ” và “không đủ”", bà Minh nhấn mạnh và chỉ rõ, bối cảnh bất định ấy không chỉ toàn “màu xám”, mà đang mở ra không ít cơ hội phát triển cho các nước thu nhập trung bình. Trong đó, khu vực Đông Nam Á đang có nhiều tiềm năng phát triển nhanh.
Điều quan trọng, theo bà Minh, là phải tận dụng tối đa các cơ hội, thông qua các cải cách thể chế kinh tế và nâng cao năng lực cho các cơ quan, doanh nghiệp và người lao động một cách kịp thời nhất.
Bên cạnh đó, Đảng, Nhà nước đã chủ động hoàn thiện khung chính sách cho đổi mới, sáng tạo. Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, qua đó đã tạo ra không khí hứng khởi cho cộng đồng khoa học trong những tuần gần đây.
“Với các chính sách kịp thời, có chất lượng để phát triển các công nghệ mới, Việt Nam đã trở thành “quê hương mới” của nhiều nhà đầu tư lớn. Dư địa chính sách cho đổi mới, sáng tạo còn rất nhiều, nếu như kết nối được các lĩnh vực này với chính sách phát triển các mô hình kinh tế mới (kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, kinh tế sáng tạo,...), và nếu kết nối sớm được qua cách tiếp cận thử nghiệm chính sách”, bà Minh nhấn mạnh.
Ở một phương diện khác, Việt Nam tiếp tục là điểm đến có kết nối sâu rộng đến các thị trường. Lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã chỉ đạo triển khai hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký kết và thúc đẩy FTA với một số đối tác mới, trong đó có các Tiểu vương quốc Ả-rập thống nhất, hay ủng hộ Anh tham gia Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).
Đồng thời, Việt Nam cũng đang vươn mình, trở thành hình mẫu của đổi mới, sáng tạo và hội nhập.
“Chúng ta đã thẳng thắn nhận diện không ít khó khăn, thách thức, như rủi ro về bẫy thu nhập trung bình, các yếu tố tạo động lực mới cho đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh... Với tâm thế ấy, các khó khăn, thách thức có thể trở thành “áp lực tích cực” để Việt Nam quyết liệt hơn trong việc thực hiện các cải cách kinh tế có tính căn bản hơn, tập trung vào đổi mới, sáng tạo và hội nhập để nền kinh tế có thể hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng kinh tế cho năm 2025 và các thập niên tiếp theo", bà Minh nhấn mạnh.
Còn ông Dennis Quennet, Cố vấn trưởng Chương trình cải cách Kinh tế vĩ mô/Tăng trưởng xanh (GIZ) chỉ rõ, năm 2025 là năm rất đặc biệt, thiết lập 50 năm ngoại giao Việt Nam - Đức. Ông nhấn mạnh, thành tựu tăng trưởng kinh tế trên 7%, thể hiện sự phục hồi mạnh mẽ của Việt Nam, dù bị ảnh hưởng của cơn bão Changi. Điểm qua các điểm tích cực trong bức tranh kinh tế Việt Nam năm 2024, ông Dennis nhấn mạnh về sự cải thiện năng suất lao động trong năm qua và nhấn mạnh đó là cách giúp Việt Nam vượt qua bẫy thu nhập trung bình.
Ông cũng lạc quan về triển vọng kinh tế Việt Nam 2025, đặc biệt với công cuộc cải cách hệ thống chính phủ để hoạt động tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.
4 khó khăn, 3 cơ hội và 4 thách thức trong năm 2025
Về các yếu tố tác động lớn tới triển vọng kinh tế thế giới năm 2025, ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng ban Nghiên cứu tổng hợp, CIEM chỉ 4 yếu tố. Thứ nhất, kinh tế toàn cầu có thể đối mặt với khó khăn, thách thức trong bối cảnh gia tăng bất định, xung đột có thể diễn biến phức tạp ở nhiều khu vực. Thứ hai, giá hàng hóa có thể biến động đáng kể do hệ quả của các cú sốc về khí hậu, căng thẳng địa chính trị leo thang. Thứ ba, cạnh tranh thương mại – công nghệ giữa các siêu cường gia tăng. Thứ tư, Cách mạng Công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Các công nghệ mới (đặc biệt là trí tuệ nhân tạo) sẽ tiếp tục chuyển biến nhanh, qua đó có thể thúc đẩy đổi mới sáng tạo, cải thiện năng suất lao động.
Trong bối cảnh đó, kinh tế Việt Nam có thể có một số cơ hội quan trọng. Thứ nhất, xu hướng phát triển của khoa học – công nghệ có thể giúp thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng các ngành, hoạt động, sản phẩm có hàm lượng giá trị gia tăng, khoa học – công nghệ cao hơn. Thứ hai, Việt Nam sẽ tiếp tục có cơ hội để thu hút đầu tư nước ngoài. Cơ hội từ thu hút đầu tư nước ngoài có thể mở rộng không gian cho tăng trưởng kinh tế thông qua chuyển giao công nghệ.
Thứ ba, Việt Nam có thể có cơ hội gia tăng đáng kể năng suất lao động nhờ cải cách thể chế, trong đó có cải cách bộ máy và cải cách thủ tục hành chính.
Ông Dương cũng chỉ rõ, Việt Nam cũng phải xử lý một số vấn đề, thách thức đối với tăng trưởng kinh tế trong năm 2025. Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế thế giới có thể phục hồi chậm, thậm chí suy giảm trong năm 2025. Thứ hai, sự phát triển nhanh của các công nghệ mới - bên cạnh các cơ hội to lớn - cũng đặt ra thách thức không nhỏ nếu Việt Nam không sớm hiện thực hóa một cách tiếp cận phù hợp. Thứ ba, thu hút FDI có chất lượng là một yêu cầu đúng đắn, song khó có thể hiệu quả và đúng hướng nếu không kịp thời cụ thể hóa các tiêu chí về chất lượng của dự án, phù hợp với định hướng phát triển của nền kinh tế. Thứ tư, hiện thực hóa tăng trưởng cao là một yêu cầu quan trọng để Việt Nam hướng tới các mục tiêu phát triển đầy tham vọng vào năm 2030 và 2045, song chỉ thực sự có ý nghĩa nếu không đi kèm với áp lực lạm phát cao./.
Bình luận