Những thành tựu và khó khăn, hạn chế trong phát triển vùng ở Việt Nam từ đổi mới (1986) đến Đại hội XIII của Đảng
Từ khóa: phát triển vùng kinh tế, các vùng kinh tế - xã hội, thành tựu, khó khăn
Summary
After nearly 40 years of implementing the renovation policy and building socialism, since the 6th National Congress (1986) and more than 30 years of implementing the Platform for national construction in the transitional period to socialism (1991) to date, Vietnam has achieved enormous and significantly crucial achievements in developing socio-economic regions closely linked to the great achievements in the socio-economic development of the country. The article clearly states the achievements and points out the difficulties and limitations in regional development in Vietnam from the Renovation (1986) to the 13th National Congress of the Party. From there, it proposes several recommendations for the coming time.
Keywords: economic regional development, socio-economic regions, achievements, difficulties
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phát triển vùng là chủ trương xuyên suốt và nhất quán của Đảng ta trong quá trình phát triển đất nước nhằm khai thác, phát huy các tiềm năng, lợi thế của các vùng và các địa phương trong cả nước để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Việc xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện 6 nghị quyết mới của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh 6 vùng của đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 là hết sức cần thiết, góp phần hiện thực hóa mục tiêu phấn đấu đến năm 2030 nước ta trở thành nước công nghiệp hiện đại, có thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao và phù hợp với bối cảnh, tình hình thế giới, khu vực và trong nước.
Đặc biệt, Đại hội XIII của Đảng định hướng phát triển các vùng chủ yếu như sau: Vùng Trung du và miền núi phía Bắc (TDMNPB) được định hướng trở thành vùng phát triển xanh, bền vững và toàn diện; vùng Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) phát triển nhanh, bền vững, có cơ cấu kinh tế hợp lý, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc; công nghiệp, dịch vụ hiện đại và nông nghiệp công nghệ cao, hữu cơ, xanh, tuần hoàn có giá trị kinh tế cao; trở thành trung tâm giáo dục, đào tạo nhân lực chất lượng cao của cả nước; vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (BTB&DHMT) phát triển năng động, nhanh và bền vững, mạnh về kinh tế biển; vùng Tây Nguyên phát triển nhanh, bền vững dựa trên kinh tế xanh, tuần hoàn; giàu bản sắc văn hóa dân tộc, điểm đến đặc sắc, hấp dẫn khách du lịch trong nước và quốc tế; vùng Đông Nam Bộ (ĐNB) có cơ cấu kinh tế hiện đại, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, động lực tăng trưởng lớn nhất cả nước; vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) phát triển nhanh, bền vững, hiện đại, sinh thái, văn minh, mang đậm bản sắc văn hóa sông nước.
Chính phủ cũng đã ban hành các nghị quyết về Chương trình hành động thực hiện các nghị quyết về phát triển 6 vùng của Bộ Chính trị, nhằm tạo sự thống nhất cao, nâng cao nhận thức và cụ thể hóa mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp; đồng thời, từng bước hoàn thiện thể chế, thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp liên kết giữa các vùng và giữa các địa phương trong vùng. Đặc biệt, Nghị quyết số 81/2023/QH15, ngày 09/01/2023 của Quốc hội về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 chỉ rõ, không gian phát triển quốc gia phải được tổ chức hiệu quả, thống nhất trên quy mô toàn quốc, bảo đảm liên kết nội vùng, liên vùng, khu vực và quốc tế gắn với khai thác lợi thế so sánh của quốc gia, từng vùng, từng địa phương trong vùng nhằm huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Trong bối cảnh đó, việc đánh giá lại thành tựu phát triển vùng, chỉ rõ những hạn chế, khó khăn để từ đó đưa ra các giải pháp phát triển trong thời gian tới là cần thiết.
NHỮNG THÀNH TỰU PHÁT TRIỂN VÙNG SAU GẦN 40 NĂM (TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY)
Về đóng góp vào tăng trưởng kinh tế chung
Từ năm 1995 đến nay[1], Vùng ĐNB và vùng ĐBSH luôn đóng góp lớn vào tăng trưởng chung của cả nước. Giai đoạn 1996-2000 tốc độ tăng trưởng vùng ĐBSH đạt 9,2% đóng góp 21,3% vào tăng trưởng chung của cả nước, trong đó vùng ĐNB đóng góp 36,5% vào tăng trưởng chung với tốc độ tăng trưởng là 11,0%. Giai đoạn 2011-2010, tốc độ tăng trưởng vùng ĐBSH đạt 11,2% đóng góp 21,8% vào tăng trưởng chung của cả nước, trong đó vùng ĐNB đóng góp 36,5% vào tăng trưởng chung với tốc độ tăng trưởng là 11,4%. Giai đoạn 2011-2020, tốc độ tăng trưởng vùng ĐBSH đạt 8,0% đóng góp 32,6% vào tăng trưởng chung của cả nước, trong đó vùng ĐNB đóng góp 31,8% vào tăng trưởng chung với tốc độ tăng trưởng là 6,1%. Giai đoạn 2021-2023 tốc độ tăng trưởng vùng ĐBSH đạt 7,2% đóng góp 38,8% vào tăng trưởng chung của cả nước, trong đó vùng ĐNB đóng góp 20,1% vào tăng trưởng chung với tốc độ tăng trưởng là 3,8%. Đáng chú ý, trong cả thời kỳ từ năm 1995 đến nay, vùng ĐBSH luôn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao hơn cả nước nên tỷ trọng đóng góp vào tăng trưởng chung liên tục tăng; còn vùng ĐNB, không duy trì được khả năng tăng trưởng, nên tỷ trọng đóng góp vào tăng trưởng chung liên tục suy giảm, nguyên nhân chủ yếu là vùng ĐNB phụ thuộc nhiều vào đầu tư của khu vực FDI và xuất khẩu.
Trong thời kỳ 1995 đến nay, các vùng TDMNPB có sự gia tăng trong đóng góp vào tăng trưởng chung của cả nước, lần lượt từ 6,3% giai đoạn 1996-2010 lên 8,6% giai đoạn 2011-2020 và lên 10,4% giai đoạn 2021-2023. Đóng góp của vùng BTB&DHMT là không ổn định. Đóng góp của vùng ĐBSCL có suy giảm đáng kể (từ 19,5% giai đoạn 2001-2010 xuống còn 10,6% giai đoạn 2011-2020 và 10,3% giai đoạn 2021-2023 so với 12,4% năm 2010). Chiếm tỷ trọng thấp nhất và liên tục suy giảm trong đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của cả nước là vùng Tây Nguyên.
Bảng 1: Đóng góp của các vùng vào tăng trưởng kinh tế chung
Đơn vị: %
|
ĐBSH |
TDMNPB |
BTB& DHMT |
Tây Nguyên |
ĐNB |
ĐBSCL |
Tốc độ tăng trưởng |
||||||
1996-2000 |
9,2 |
8,6 |
8,0 |
15,6 |
11,0 |
7,8 |
2001-2010 |
11,2 |
11,0 |
11,6 |
12,3 |
12,3 |
11,4 |
2011-2020 |
8,0 |
8,2 |
7,0 |
6,2 |
6,1 |
6,1 |
2021-2023 |
7,2 |
7,4 |
6,8 |
7,1 |
3,8 |
5,1 |
Đóng góp vào tăng trưởng |
||||||
1996-2000 |
21,3 |
6,3 |
13,3 |
6,2 |
36,5 |
16,6 |
2001-2010 |
21,8 |
6,3 |
15,6 |
4,8 |
36,5 |
19,5 |
2011-2020 |
32,6 |
8,6 |
13,2 |
3,1 |
31,8 |
10,6 |
2021-2023 |
38,8 |
10,4 |
16,1 |
4,3 |
20,1 |
10,3 |
Nguồn: Tính toán từ dữ liệu Niên giám Thống kê của các địa phương qua các năm
Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các ngành
Trong thời kỳ 1995 đến nay, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các vùng là rất tích cực, bước đầu khai thác được những lợi thế của vùng.
Về phát triển nông, lâm, thủy sản
Trong thời kỳ 1995 đến nay, tỷ trọng ngành nông, lâm và thủy sản trong tổng sản phẩm của các vùng có xu hướng giảm nhanh, giảm nhanh nhất là vùng TDMNPB, giảm từ 52,1% trong GRDP của vùng năm 1995 xuống còn 17,5% năm 2023; tiếp theo là vùng ĐBSCL giảm từ 62,0% năm 1995 xuống còn 30,0% năm 2023; vùng Tây Nguyên từ 63,5% năm 1995 xuống còn 34,3% năm 2023; vùng ĐBSH có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế khá ấn tượng, chuyển đổi từ vùng sản xuất lượng thực là chính sang phát triển công nghiệp và dịch vụ với cơ cấu ngành nông nghiệp giảm từ 30,6% năm 1995 xuống còn 4,9% năm 2023; vùng BTB&DHMT giảm từ 44,3% năm 1995 xuống còn 17,0% năm 2023 và chuyển cơ cấu nông nghiệp của vùng ĐNB là thấp nhất từ 10,5% năm 1995 xuống 4,3% năm 2023. Về xu thế trong thời kỳ 1995-2023, đáng chú ý là việc giảm tỷ trọng của hai vùng “đồng bằng” trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản cả nước. Trong khi đó tỷ trọng của vùng TDMNPB đã tăng từ 11,7% năm 2010 lên 13,5% năm 2020 và 13,7% năm 2023. Tây Nguyên là vùng chiếm tỷ trọng thấp nhất trong cơ cấu khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản của cả nước. Một điểm đáng chú ý là sự giảm dần số lượng các tỉnh vùng ĐBSCL trong số 15 địa phương chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu giá trị tăng thêm khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản của cả nước và được thay thế bằng các tỉnh miền Trung và phía Bắc. Đến năm 2020, vùng TDMNPB mới có đại diện đầu tiên (là tỉnh Bắc Giang) trong nhóm 15 địa phương đứng đầu cả nước về tỷ trọng đóng góp trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản của cả nước.
Bảng 2: Chuyển dịch trong cơ cấu kinh tế của các vùng
Đơn vị: %
|
ĐBSH |
TDMNPB |
BTB& DHMT |
Tây Nguyên |
ĐNB |
ĐBSCL |
Nông, lâm, thủy sản |
||||||
1995 |
30,6 |
52,1 |
44,3 |
63,5 |
10,5 |
62,0 |
2000 |
22,7 |
45,2 |
37,0 |
56,8 |
6,7 |
52,7 |
2010 |
9,0 |
26,5 |
23,3 |
36,3 |
4,8 |
41,3 |
2020 |
5,8 |
20,0 |
19,0 |
34,6 |
4,6 |
31,9 |
2023 |
4,9 |
17,5 |
17,0 |
34,3 |
4,3 |
30,0 |
Công nghiệp – xây dựng |
||||||
1995 |
26,2 |
18,6 |
19,3 |
14,1 |
46,5 |
14,0 |
2000 |
26,4 |
21,2 |
25,4 |
15,8 |
57,6 |
18,0 |
2010 |
29,2 |
27,9 |
23,5 |
15,7 |
46,0 |
20,3 |
2020 |
40,6 |
40,4 |
31,6 |
18,0 |
41,7 |
26,3 |
2023 |
41,6 |
42,7 |
34,5 |
21,4 |
40,9 |
27,5 |
Thương mại, dịch vụ |
||||||
1995 |
43,2 |
29,3 |
36,5 |
22,4 |
43,0 |
24,0 |
2000 |
50,9 |
33,6 |
37,5 |
27,4 |
35,7 |
29,3 |
2010 |
48,5 |
40,0 |
44,9 |
40,3 |
38,5 |
33,9 |
2020 |
43,6 |
31,7 |
41,0 |
42,4 |
43,5 |
36,1 |
2023 |
44,0 |
35 |
40,5 |
39,7 |
44,6 |
37,3 |
Nguồn: Tính toán từ dữ liệu Niên giám Thống kê của các địa phương qua các năm
Về phát triển công nghiệp – xây dựng
Qua tỷ trọng của ngành công nghiệp – xây dựng trong tổng sản phẩm của các vùng có xu hướng tăng do các địa phương trong của các vùng đã từng bước khai thác những lợi thế về vị trí địa lý, tiềm năng đất đai cũng như cải thiện môi trườn kinh doanh phản ánh được chính sách phát triển công nghiệp và nhu cầu đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài nước qua từng giai đoạn.
Giai đoạn 1995-2010, các nhà đầu tư tập trung đầu tư vào các địa phương vùng ĐNB, nên tỷ trọng ngành công nghiệp – xây dựng trong tổng GRDP của vùng dao động khoảng 46,5% (năm 1995); 57,6% (năm 2000); 46,0% (năm 2010), có một số nhà đấu tư cũng đã đầu tư đến các vùng còn lại, nhưng chưa tạo được sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, như: cơ cấu ngành công nghiệp của vùng ĐBSH chiếm 26,2% năm 1995 lên 29,2% năm 2010; vùng TDMNPB từ 18,6% năm 1995 lên 27,9% năm 2010; vùng BTB&DHMT từ 19,3% năm 1995 lên 23,5%; vùng ĐBSCL từ 14,0% năm 195 lên 20,3% năm 2010; vùng Tây Nguyên gặp rất nhiều khó khăn trong thu hút doanh nghiệp đầu tư vào công nghiệp, tăng từ 14,1% năm 1995 lên 15,7% năm 2010.
Giai đoạn từ 2011 đến nay, với sự bùng nổ thu hút đầu tư trong phát triển công nghiệp – xây dựng của các vùng ĐBSH, TDMNPB và BTB&DHMT đã làm thay đổi cơ cấu lãnh thổ khu vực công nghiệp – xây dựng cả nước là sự giảm tỷ trọng của vùng ĐNB và gia tăng tỷ trọng của hầu hết các vùng khác, đặc biệt là vùng ĐBSH. Trong đó, tỷ trọng ngành công nghiệp – xây dựng vùng ĐBSH tăng từ 29,2% năm 2010 lên 41,6% năm 2023; vùng TDMNPB tăng tăng từ 27,9% năm 2010 leen,7% năm 2023; vùng BTB&DHMT tăng từ 23,5% năm 2010 lên 34,5% năm 2023. Vùng ĐNB giảm sút trong thu hút đầu tư vào ngành công nghiệp – xây dựng, nên cơ cấu của ngành cũng giảm theo, từ 46,0% năm 2010 xuống còn 40,9% năm 2023. Hai vùng Tây Nguyên và ĐBSCL vẫn gặp khó khăn trong việc thu hút đầu tư vào công nghiệp, nên tỷ trọng ngành công nghiệp – xây dựng tăng chậm, vùng Tây Nguyên tăng từ 15,7% năm 2010 lên 21,4% năm 2023 và vùng ĐBSCL tăng từ 20,3% năm 2010 lên 27,5% năm 2023. Điểm đáng chú ý trong thay đổi cơ cấu lãnh thổ khu vực công nghiệp – xây dựng cả nước là sự giảm tỷ trọng của vùng ĐNB và gia tăng tỷ trọng của hầu hết các vùng khác, đặc biệt là vùng ĐBSH. Sau hơn 10 năm, tỷ trọng vùng ĐNB trong cơ cấu khu vực công nghiệp – xây dựng cả nước đã giảm từ 51,9% xuống 36% (giảm 15,9 điểm %). Trong khi đó, vùng ĐBSH tăng 8,5 điểm %, vùng TDMNPB tăng 3,5 điểm %, vùng BTB&DHMT tăng 3 điểm %, vùng ĐBSCL tăng 0,9 điểm %. Tỷ trọng vùng Tây Nguyên rất thấp (1,7%) và không có sự thay đổi.
Nếu xét riêng ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, tỷ trọng của vùng ĐNB trong cơ cấu cả nước cũng giảm từ 51,1% năm 2010 xuống còn 39,9% năm 2020, tương ứng với mức giảm 11,2 điểm %. Trong khi đó, vùng ĐBSH tăng 6,2 điểm %, vùng TDMNPB tăng 3,8 điểm %; vùng BTBDHMT tăng 1,5 điểm %. Tỷ trọng của 2 vùng ĐBSCL và Tây Nguyên hầu như không thay đổi so với năm 2010. Tỷ trọng vùng Tây Nguyên rất thấp (0,8%) trong cơ cấu ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cả nước.
Về cơ cấu lãnh thổ theo địa phương, nhìn chung nhóm 15 địa phương có tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo của cả nước tương đối ổn định với 2 cụm lớn là cụm phía Bắc gồm: Hà Nội, TP. Hải Phòng, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Hải Dương và Bắc Giang (từ năm 2015 có thêm tỉnh Thái Nguyên); và cụm phía Nam gồm: TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu (đến năm 2020 có thêm tỉnh Tây Ninh). Trong đó, cụm các tỉnh phía Nam chiếm gần 42% và cụm các tỉnh phía Bắc chiếm hơn 33%. Tổng tỷ trọng của 15 địa phương chiếm 77,5% giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cả nước năm 2020 (năm 2015 là 78,7%; năm 2010 là 80,9%). Trong cả thời kỳ 2011-2020, ba trung tâm công nghiệp chế biến, chế tạo lớn nhất cả nước là TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai dù vị thế có xu hướng giảm qua thời gian; năm 2020, ba địa phương này đóng góp 34% giá trị gia tăng ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cả nước (năm 2015: 39,2%; năm 2010: 46,6%).
Đối với các địa phương không nằm trong phạm vi các cụm nói trên, TP. Cần Thơ từ năm 2014 đã không còn trong nhóm 15 địa phương có tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu theo lãnh thổ của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cả nước. Tương tự là tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2019. Riêng tỉnh Thanh Hóa duy trì được vị trí trong suốt thời kỳ 2011-2020, tuy nhiên tỷ trọng đóng góp tương đối nhỏ, chỉ khoảng 1%-2%.
Về phát triển ngành dịch vụ
Trong thời kỳ 1995-2023, tỷ trọng ngành dịch vụ của các vùng có sự biến động nhất định. Tỷ trọng ngành dịch vụ vùng ĐBSH trong tổng GRDP của vùng tăng từ 43,2% năm 1995 lên 50,9% năm 2000 rồi có xu hướng giảm dần, xuống 48,5% năm 2010, xuống tiếp 43,6% năm 2020 và 44,0% năm 2023. Tỷ trọng ngành dịch vụ TDMNPB trong tổng GDP của vùng có xu hướng tăng trong giai đoạn 1995-2010 từ 29,3% năm 1995 lên 40,0 năm 2010, giảm xuống 31,7% năm 2020 và tăng lên 35,0% năm 2023. Giống vùng TDMNPB, tỷ trọng vùng BTB&DHMT trong tổng GDP của vùng cũng có xu hướng tăng trong giai đoạn 1995-2010 và giảm trong giai đoạn 2011-2020, từ 36,5% năm 1995 lên 44,9% năm 2010 rồi giảm xuống 41,0% năm 2020 và 40,5% năm 2023. Tỷ trọng ngành dịch vụ vùng Tây Nguyên liên tục tăng trong giai đoạn 1995-2002, từ 22,4% năm 1995 lên 40,3% năm 2010, tăng tiếp lên 42,4% năm 2020 và giảm nhẹ xuống 39,7% năm 2023. Ngược với vùng ĐBSH, tỷ trọng ngành dịch vụ của vùng ĐNB giảm từ 43,0% năm 1995 xuống 35,7% năm 2000, tăng lên 38,5% năm 2010, tăng tiếp lên 43,5% năm 2020 và 44,6% năm 2023. Tỷ trọng của ngành dịch vụ vùng ĐBSCL tăng liên tục từ 24,4% năm 1995 lên 29,3% năm 2000, lên 33,9% năm 2010, lên tiếp 36,1% năm 2020 và 37,3 năm 2023.
Cơ cấu vùng của khu vực dịch vụ cả nước nhìn chung tương đối ổn định, sự thay đổi tỷ trọng của các vùng trong cơ cấu cả nước không lớn trong thời kỳ 2011-2023. ĐNB và ĐBSH là 2 trung tâm dịch vụ lớn nhất cả nước, vượt trội so với các vùng khác. Tỷ trọng vùng xếp thứ ba là BTB&DHMT chỉ bằng một nửa của vùng ĐBSH, tiếp theo là vùng ĐBSCL, vùng TDMNPB thấp nhất là vùng Tây Nguyên Cơ cấu lãnh thổ theo địa phương của khu vực dịch vụ nhìn chung rất ổn định nếu so với 2 khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản và công nghiệp - xây dựng. Nhóm 15 địa phương đứng đầu trong xếp hạng về tỷ trọng trong cơ cấu lãnh thổ khu vực dịch vụ không có sự thay đổi về các tỉnh, thành phố góp mặt. Cụ thể bao gồm Hà Nội và các cụm tỉnh Hải Dương - Quảng Ninh - TP. Hải Phòng; cụm Thanh Hóa - Nghệ An; TP. Đà Nẵng; cụm Khánh Hòa – Đắk Lắk; cụm TP. Hồ Chí Minh - Bình Dương - Đồng Nai - Bà Rịa - Vũng Tàu; cụm TP. Cần Thơ - An Giang. Nhóm 15 địa phương này chiếm 68%-69% tổng giá trị tăng thêm khu vực dịch vụ cả nước qua các năm. Trong đó, hai trung tâm lớn nhất là TP. Hồ Chí Minh (chiếm 26-27%) và Hà Nội (chiếm 19%-21%).
Bảng 3: Một số chỉ tiêu phát triển kinh tế của các vùng
|
ĐBSH |
TDMNPB |
BTB& DHMT |
Tây Nguyên |
ĐNB |
ĐBSCL |
Sản lượng có hạt bình quân đầu người (kg/người) |
||||||
1995 |
319,8 |
210,4 |
236,1 |
160,2 |
124,7 |
831,6 |
2000 |
390,9 |
287,5 |
291 |
214,1 |
148,7 |
1.025,1 |
2010 |
365,5 |
413,9 |
369,8 |
427 |
119,3 |
1.269,1 |
2020 |
277,7 |
401,4 |
370,3 |
423,8 |
98,6 |
1.385,7 |
2022 |
264,3 |
393,6 |
375 |
415,7 |
94,9 |
1.359,6 |
Diện tích rừng trồng mới (ha) |
||||||
1995 |
17,8 |
45,6 |
80,8 |
11,1 |
14,8 |
39,5 |
2000 |
12 |
75 |
62,4 |
13,3 |
7 |
18,2 |
2010 |
18,2 |
111,1 |
97,6 |
17,4 |
7 |
5,5 |
2020 |
12,6 |
89,6 |
142,3 |
11,9 |
5,9 |
7,6 |
2022 |
16,6 |
96,8 |
161,8 |
17,1 |
6,9 |
7,3 |
Sản lượng thủy sản (1000 |
||||||
1995 |
125,7 |
24,8 |
448,1 |
8,9 |
157,6 |
819,2 |
2000 |
219,5 |
29,6 |
627,8 |
10,3 |
194,3 |
1.169,1 |
2010 |
609,3 |
75,9 |
1.140,5 |
26,1 |
365,2 |
2.987,4 |
2020 |
1.154,5 |
164,4 |
1.914,7 |
48,1 |
519,8 |
4.834,2 |
2022 |
1.250,4 |
179,7 |
2.018,0 |
53,3 |
508,8 |
5.097,7 |
Tổng mức bán lẻ hàng hóa (1000 tỷ đồng) |
||||||
1995 |
23,7 |
5,7 |
20,8 |
2,3 |
43,2 |
23,9 |
2000 |
46,6 |
9,9 |
35,4 |
7,6 |
77,4 |
43,5 |
2010 |
363,7 |
78,9 |
247,0 |
69,0 |
616,1 |
302,6 |
2020 |
1.133,4 |
256,6 |
739,1 |
217,1 |
1.570,1 |
931,4 |
2022 |
1.362,8 |
318,0 |
918,3 |
248,0 |
1.485,0 |
1.031,1 |
Giá trị xuất khẩu (tỷ USD) |
||||||
2015 |
50,2 |
21,4 |
7,4 |
1,6 |
137,0 |
11,9 |
2016 |
53,7 |
27,0 |
7,8 |
1,9 |
147,4 |
12,8 |
2017 |
70,2 |
33,7 |
9,2 |
2,4 |
168,4 |
15,4 |
2018 |
84,8 |
36,7 |
11,7 |
2,6 |
185,7 |
17,4 |
2019 |
90,3 |
41,6 |
13,2 |
2,4 |
197,9 |
18,6 |
2020 |
100,7 |
43,1 |
15,1 |
2,5 |
202,0 |
18,8 |
2021 |
121,1 |
58,0 |
20,7 |
2,8 |
235,9 |
19,3 |
2022 |
129,6 |
69,3 |
22,2 |
3,7 |
246,9 |
24,1 |
Nguồn: Tổng hợp từ website của Tổng cục Thống kê; Tổng cục Hải quan (xuất khẩu)
Về nâng cao đời sống của người dân
- Về tăng thu nhập của người dân: Thu nhập của người ngày một nâng cao nhưng có sự chênh lệch giữa các vùng. Vùng ĐBSH và Vùng ĐNB có mức tăng trưởng thu nhập nhanh nhất. GDP/người vùng ĐBSH tăng từ 4,9 triệu đồng năm 2000 lên 35,9 triệu đồng năm 2010, lên 103,6 triệu đồng năm 2020 và 123,0 triệu đồng năm 2023. GDP/người vùng ĐNB tăng từ 9,0 triệu đồng năm 2000 lên 68,2 triệu đồng năm 2010, lên 141,3 triệu đồng năm 2020 và 156,6 triệu đồng năm 2023. Các vùng còn lại có GDP/người không quá chênh lệch. Năm 2000, GDP/người vùng TDMNPB là 2,6 triệu đồng, vùng BTB&DHMT là 3,3 triệu đồng, vùng Tây Nguyên là 3,3 triệu đồng, vùng ĐBSCL là 4,3 triệu đồng. Năm 2023, GDP/người vùng TDMNPB là 63,3 triệu đồng, vùng BTB&DHMT là 69,4 triệu đồng, vùng Tây Nguyên là 60,1 triệu đồng, vùng ĐBSCL là 65,8 triệu đồng.
- Về xóa đói, giảm nghèo: Với các chính sách xóa đói, giảm nghèo của Đảng và nhà nước, tỷ lệ hộ nghèo của các các vùng cải thiện rõ rệt, nhưng vẫn có sự chênh lệch giữa các vùng. Vùng TDMNPB (năm 2010 tỷ lệ hộ nghèo là 29,4 %, năm 2022 tỷ lệ hộ nghèo đa chiều là 12,1%) và vùng Tây Nguyên (năm 2010, tỷ lệ hộ nghèo là 22,2% và năm 2022 tỷ lệ hộ nghèo đa chiều là 11,4%) vẫn có tỷ lệ nghèo cao. Đến năm 2022, vùng BTB&DHMT và vùng ĐBSCL vẫn còn hộ nghèo, có tỷ lệ hộ nghèo từ 5,0% trở xuống; tỷ lệ hộ nghèo đa chiều vùng BTB&DHMT là 5,0% và vùng ĐBSCL là 4,7%. Hai vùng ĐBSH và ĐNB cơ bản đã xóa được đói nghèo, tỷ lệ hộ nghèo của vùng ĐBSH năm 2022 là 0,9% và vùng ĐNB là 0,7%.
Về bất bình đẳng trong thu nhập. Sự chệnh lệch về thu nhập giữa các nhóm thu nhập của các vùng có xu hướng giảm. Hệ số GINI của vùng ĐBSH là 0,39 năm 2018 giảm xuống 0,333 năm 2022. Hệ số GINI của vùng TDMNPB là 0,444 năm 2018 giảm xuống 0,408 năm 2022. Hệ số GINI của vùng BTD&DHMT là 0,383 năm 2018 giảm xuống 0,351 năm 2022. Hệ số GINI của vùng Tây Nguyên là 0,440 năm 2018 giảm xuống 0,399 năm 2022. Hệ số GINI của vùng ĐNB là 0,375 năm 2018 giảm xuống 0,346 năm 2022. Hệ số GINI của vùng ĐBSCL là 0,40 năm 2018 giảm xuống 0,352 năm 2022. Như vậy, vùng ĐBSH có mức chênh lệch thu nhập thấp nhất, tiếp đến là vùng ĐNB, tiếp theo là vùng BTB&DHMT, tiếp nữa là vùng ĐBSCL, chênh lệch cao nhất là vùng TDMNPB.
Về chỉ số phát triển con người. Chỉ số phát triển con người (HDI) của các vùng ngành càng cải thiện. Vùng ĐBSH là vùng có chỉ số HDI cao nhất (0,768 năm 2022); tiếp đến là Vùng ĐNB (0,761 năm 2022), BTB&DHMT (0,719 năm 2022), ĐBSCL (0,692 năm 2022); và vùng TDMNPB có chỉ số phát triển con người là thấp nhất (0,679 năm 2022).
NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG PHÁT TRIỂN VÙNG HIỆN NAY
Vùng Tây Nguyên tăng trưởng kinh tế còn thiếu bền vững; thu nhập bình quân đầu người thấp. Khoảng cách giàu - nghèo giữa các nhóm dân tộc chậm được thu hẹp. Giảm nghèo chưa bền vững, nguy cơ tái nghèo còn cao; tỷ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới còn thấp. Vùng ĐNB, tăng trưởng kinh tế có xu hướng chậm lại; đóng góp vào tổng thu ngân sách nhà nước giảm, tốc độ tăng năng suất lao động thấp, tốc độ tăng trưởng ở ĐNB từng đạt trung bình trên 10% rồi giảm rõ rệt trong thập niên gần đây, duy trì trung bình 7%-8% mỗi năm. Vùng ĐBSCL đang phải đối mặt nhiều thách thức, nhất là từ tác động của biến đổi khí hậu, khai thác sử dụng nước ở thượng nguồn; những yếu kém nội tại của nền sản xuất nhỏ, thiếu hợp tác, liên kết; kết cấu hạ tầng còn bất cập trước yêu cầu sản xuất quy mô lớn; các hình thức tổ chức sản xuất, hợp tác xã nông nghiệp vẫn còn bất cập, hiệu quả chưa cao…
Huy động nguồn lực đầu tư cho các vùng chưa đáp ứng được yêu cầu, nhất là đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông kết nối vùng, liên vùng; cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, còn thiếu trọng tâm, trọng điểm.
Hệ thống kết cấu hạ tầng chưa hoàn chỉnh và đồng bộ, tính kết nối chưa cao, tỉ lệ đường cao tốc thấp. Chưa phát huy được ở mức cao nhất lợi thế của các công trình hạ tầng quan trọng. Việc gắn kết trong đầu tư kết cấu hạ tầng trọng điểm với vận động, thu hút các nguồn vốn đầu tư và định hướng phát triển của tỉnh, của vùng còn hạn chế.
Liên kết phát triển vùng còn lỏng lẻo, bị động, chưa mang tính tổng thể (mới chỉ là phép cộng cơ học), trong nhiều trường hợp mới chỉ mang tính hình thức.
Việc liên kết liên ngành, liên tỉnh trong đầu tư phát triển; liên kết doanh nghiệp để hình thành mạng lưới sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ trên cơ sở khai thác điều kiện lợi thế, nguồn tài nguyên ở từng khu vực địa bàn, địa phương chưa nhiều, còn thiếu chặt chẽ; lợi thế quy mô nhiều ngành, lĩnh vực chưa được khai thác, phát huy.
NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN VÙNG TRONG THỜI GIAN TỚI
Giải pháp phát triển vùng
Một là, nâng cao hơn nữa nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, các địa phương trong thực hiện chủ trương phát triển vùng theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng và các nghị quyết về phát triển vùng của Bộ Chính trị. Tạo sự thống nhất cao hơn trong nhận thức ở tất cả các cấp, các ngành về vai trò, vị trí và tầm quan trọng đặc biệt của phát triển vùng và liên kết vùng. Khơi dậy và phát huy mạnh mẽ truyền thống cách mạng, tinh thần yêu nước, đổi mới, năng động, sáng tạo; ý chí, quyết tâm và khát vọng vươn lên của cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Hai là, đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách, thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp phát triển vùng. Đổi mới tư duy, tầm nhìn, phát huy tính năng động, sáng tạo trong chỉ đạo, điều hành phát triển vùng. Các cơ quan ở Trung ương cần tăng cường phối hợp với các địa phương trong xây dựng, hoàn thiện, ban hành và triển khai thực hiện luật pháp, chính sách ưu tiên, có tính đặc thù cho phát triển vùng. Đổi mới, hoàn thiện thể chế điều phối vùng có hiệu quả, phát huy tốt nhất tiềm năng, lợi thế của từng vùng.
Ba là, nâng cao hiệu quả thu hút các nguồn lực đầu tư trong phát triển kinh tế - xã hội tại các vùng trong cả nước. Huy động tối đa các nguồn lực, trong đó xác định lấy nội lực là cơ bản, chiến lược, lâu dài, quyết định. Hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy thu hút các nguồn vốn đầu tư. Rà soát, sửa đổi pháp luật về ngân sách nhà nước và các quy định liên quan theo hướng tăng cường phân cấp huy động, sử dụng nguồn lực đầu tư ở Trung ương và địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho các địa phương cùng đầu tư ngân sách vào các kết cấu hạ tầng dùng chung, kết cấu hạ tầng liên kết vùng.
Bốn là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho phát triển các vùng và liên kết giữa các vùng trong cả nước. Ðẩy mạnh đào tạo chuyên sâu về nghề nghiệp để nâng cao về năng suất, thu nhập; chuẩn bị sẵn sàng về đội ngũ lao động với kỹ năng nghề nghiệp. Xây dựng và triển khai chương trình đào tạo chuyên gia; có cơ chế, chính sách đặc biệt thu hút nhân tài, từng bước hình thành đội ngũ các nhà quản lý, nhà khoa học, chuyên gia đạt trình độ quốc tế.
Năm là, liên kết chặt chẽ và đồng bộ trong quy hoạch vùng, ngành, địa phương; xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ đột phá, trọng tâm phát triển gắn với khả năng cân đối, huy động các nguồn lực.
Giải pháp liên kết phát triển vùng
Thứ nhất, Nhà nước vừa cung cấp hàng hóa công cộng hiệu quả, khuyến khích và tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp khu vực tư nhân tham gia, nếu sự tham gia đó mang lại lợi ích tổng thể cho cả nền kinh tế.
Thứ hai, chính quyền địa phương cần tham gia tích cực, chủ động vào quá trình xây dựng và triển khai quy hoạch vùng. Các hội đồng vùng cần nâng cao hơn vai trò và hiệu quả trong việc phối hợp với chính quyền các địa phương và Trung ương để đưa ra các quy định về đầu tư, giải quyết một số vấn đề có tính liên tỉnh, đồng thời góp phần hóa giải tình trạng cục bộ, địa phương và tệ nạn phân mảnh trong tiếp cận phát triển. Hội đồng điều phối vùng có thể xây dựng các kế hoạch phát triển kinh tế hợp tác để chuyển trọng tâm của quy hoạch và đầu tư kinh tế địa phương từ cạnh tranh giữa các tỉnh lân cận khi đầu tư các công trình tương tự nhau sang chuyên môn hóa và hợp tác liên tỉnh.
Thứ ba, cần xác định phát triển kinh tế tư nhân và doanh nghiệp nhà nước là hai trụ cột quan trọng của nền kinh tế. Sự bình đẳng giữa doanh nghiệp tư nhân với doanh nghiệp nhà nước, giữa các doanh nghiệp tư nhân trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và trong các giao dịch với chính quyền, như: thực thi pháp luật, mua sắm đấu thầu, giao quyền sử dụng đất..., cần được xác lập trên thực tế, kịp thời phát hiện và có biện pháp khắc phục những sự phân biệt. Tập trung phát triển thị trường vốn và thị trường đất đai, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước ở cấp độ trung ương, sự phối hợp giữa các chính quyền địa phương trong vùng và tạo môi trường kinh doanh thuận lợi ở cấp độ địa phương.
Thứ tư, cần xác định các hành lang kinh tế chủ chốt và các chuỗi giá trị kinh tế lớn trong vùng và kết nối với các vùng khác để dự báo nhu cầu vận chuyển trong giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Thứ năm, kết nối kinh tế địa phương với kinh tế vùng, kinh tế đất nước phải dựa trên lợi thế cạnh tranh của từng địa phương, vùng, đặt trong tổng thể thúc đẩy lợi thế cạnh tranh của quốc gia./.
Tài liệu tham khảo
2. Tổng cục Thống kê (1997-2024), Niên giám Thống kê các năm, từ năm 1996 đến năm 2023, Nxb Thống kê.
3. Trần Thị Thu Trang (2023), Thúc đẩy liên kết kinh tế trong quy hoạch phát triển vùng, truy cập từ https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/832202/thuc-day-lien-ket-kinh-te-trong-quy-hoach-phat-trien-vung.aspx#.
ThS. Lê Anh Đức, Trưởng ban Chiến lược phát triển vùng
Viện Chiến lược phát triển
(Theo Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 02, tháng 01/2025)
[1] Từ năm 1995 đến nay, Tổng cục Thống kê và Cục Thống kê các địa phương mới xây dựng các chỉ tiêu thống kê về kinh tế - xã hội của các địa phương và cả nước
Bình luận