Những vấn đề đặt ra trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới*
Từ khóa: nền kinh tế độc lập tự chủ, kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Summary
Building an independent and self-reliant economy was raised right when Vietnam gained independence. However, building an independent and self-reliant economy is not easy and has gone through many difficulties and challenges. The article analyzes the impact of the international economic integration process on building an independent and self-reliant economy in Vietnam over the past 3 decades, stating the difficulties, challenges, and opportunities that Vietnam needs to grasp to make an independent and self-reliant economy, bringing the country into a new era, the era of national development.
Keywords: independent and self-reliant economy, new era, era of national development
GIỚI THIỆU
Tại Việt Nam, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ luôn là chủ trương xuyên suốt được Đảng đề ra trong quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế đất nước. Nguyên tắc này đã được Đảng xác định trong nhiều văn kiện, nghị quyết đại hội.
Do hoàn cảnh lịch sử, nên quan niệm về nền kinh tế độc lập tự chủ ở nước ta có những thay đổi trong quá trình xây dựng đất nước từ năm 1945 đến nay. Trước năm 1986, do điều kiện chiến tranh và bị cấm vận kinh tế, quan niệm kinh tế độc lập tự chủ ở Việt Nam đồng nghĩa với nền kinh tế tự cung tự cấp (nền kinh tế khép kín). Chủ động, độc lập tại thời điểm này tức là tự sản xuất, lưu thông, phân phối hàng hóa, càng giảm phụ thuộc vào nước ngoài càng tốt. Phương thức điều hành nền kinh tế khép kín dần được thay đổi kể từ khi nước ta thực hiện đường lối Đổi mới năm 1986 với chủ trương xây dựng kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó đến nay, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện, chủ trương, đường lối xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ của Đảng tiếp tục được thể chế hóa thành luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn.
Gần đây, trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021-2030 thông qua tại Đại hội XIII của Đảng đã xác định quan điểm: Xây dựng nền kinh tế tự chủ phải trên cơ sở làm chủ công nghệ và chủ động, tích cực hội nhập, đa dạng hóa thị trường, nâng cao khả năng thích ứng của nền kinh tế. Phải hình thành năng lực sản xuất quốc gia mới có tính tự chủ, tham gia hiệu quả, cải thiện vị trí trong chuỗi giá trị toàn cầu và khả năng chống chịu hiệu quả trước các tác động lớn, bất thường từ bên ngoài. Phát huy nội lực là yếu tố quyết định gắn với ngoại lực và sức mạnh thời đại.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, nền kinh tế độc lập, tự chủ được hiểu là nền kinh tế có khả năng thích ứng cao với những biến động, bất ổn của tình hình quốc tế. Sự độc lập, tự chủ được thể hiện ở khả năng độc lập và chủ động trong xây dựng đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và được đánh giá dựa trên sức mạnh nội lực của nền kinh tế như năng lực sản xuất; cơ cấu kinh tế; khu vực tài chính lành mạnh; nguồn nhân lực chất lượng cao;… Độc lập về kinh tế đồng nghĩa với phát triển trên mọi phương diện dựa trên nguồn lực, sức mạnh và công nghệ trong nước phù hợp với điều kiện và bối cảnh thực tế của đất nước song song với việc đảm bảo nền kinh tế phát triển không phụ thuộc vào bên ngoài.
Hiện nay, thế giới đang thay đổi với nhiều diễn biến phức tạp và khó đoán định như xung đột chính trị, biến đổi khí hậu, cạnh tranh chiến lược; rủi ro khủng hoảng tài chính - tiền tệ;… việc tăng tính độc lập, tự chủ, tự cường gắn với chủ động hội nhập quốc tế là yếu tố quan trọng hàng đầu nhằm nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế. Đây là đòi hỏi khách quan và cấp thiết giúp Việt Nam tận dụng thời cơ, vượt qua thử thách để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh quốc gia, phát triển nguồn nhân lực, sáng tạo và đổi mới, đảm báo cho phát triển bền vững, mở rộng quan hệ quốc tế và giữ vững được sự độc lập, tự chủ, ổn định chính trị ở Việt Nam, đồng thời nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Điều này được khẳng định trong phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm khi nói về “Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”: “Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao; khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại”.
NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Trải qua gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã có quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ và có tác động sâu sắc đến xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ của đất nước. Quá trình hội nhập quốc tế ấn tượng thông qua việc ký kết các hiệp định thương mại, tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế, phát triển quan hệ kinh tế với nhiều quốc gia trên thế giới, tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Việt Nam đã ký kết và tham gia vào nhiều tổ chức kinh tế và hiệp định thương mại quan trọng, nhằm mở rộng quan hệ thương mại và tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế. Trong số đó, có một số dấu mốc đáng chú ý như:
- Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA): Việt Nam là thành viên của ASEAN từ năm 1995 và đã tham gia vào AFTA, hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa các quốc gia thành viên của ASEAN. AFTA là một nền tảng quan trọng giúp thúc đẩy cải thiện tiêu chuẩn và quy tắc thương mại trong khu vực và tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại và đầu tư của Việt Nam.
- Năm 1998, Việt Nam là thành viên sáng lập của Diễn đàn kinh tế Á – Âu (ASEM). Cũng trong năm đó, Việt Nam trở thành thành viên của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC). Từ đó đến nay, Việt Nam luôn là một trong những thành viên tích cực nhất tham gia vào những hoạt động của các tổ chức này.
- Một dấu mốc đặc biệt của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam là gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Ngày 11/01/2007, lễ kết nạp Việt Nam gia nhập WTO được tổ chức tại trụ sở WTO ở Geneva, Thụy Sĩ. Theo đó, Việt Nam là thành viên thứ 150 của WTO, đánh dấu sự hội nhập toàn diện vào nền kinh tế toàn cầu.
- Hiệp định Đối tác Kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA): Đây là FTA song phương đầu tiên của Việt Nam, được ký năm 2009. Trong đó cả Việt Nam và Nhật Bản dành nhiều ưu đãi cho nhau hơn so với Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện ASEAN – Nhật Bản (AJCEP). VJEPA tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở cửa thị trường, tăng cường hợp tác đầu tư và nâng cao quyền lợi kinh doanh của các doanh nghiệp (DN) 2 nước.
- Năm 2018, Việt Nam là một trong 11 quốc gia thành viên đầu tiên của Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), một FTA đa biên giới thế hệ mới. CPTPP đã tạo điều kiện cho Việt Nam tiếp cận các thị trường mới và nâng cao tiêu chuẩn và quy tắc thương mại.
- Năm 2021, Việt Nam gia nhập Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA): Đây là FTA giữa Việt Nam và các quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu (EU). EVFTA đã mở ra cơ hội lớn cho việc tăng cường thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và EU, đồng thời thúc đẩy quyền lợi của DN và người tiêu dùng Việt Nam.
Việc phát triển quan hệ kinh tế với nhiều quốc gia trên thế giới thông qua nâng cao quan hệ ngoại giao với các đối tác chiến lược, tham gia các tổ chức kinh tế, ký kết các FTA, hợp tác song phương, đa phương và khu vực giúp Việt Nam mở rộng phạm vi hợp tác với các đối tác quốc tế, từ việc trao đổi thương mại đến hợp tác đầu tư, nghiên cứu và phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế.
Thứ nhất, hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam mở rộng và tiếp cận sâu hơn đối với thị trường toàn cầu, từ đó tăng cường cán cân vãng lai, đặc biệt là xuất khẩu. Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng kinh tế ổn định trong nhiều năm qua, tỷ lệ tăng trưởng GDP hàng năm khoảng 6% liên tục trong giai đoạn từ 2007 đến nay, có một phần đóng góp rất lớn đến từ kim ngạch xuất nhập khẩu. Từ năm 2016, cán cân hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam luôn thặng dư (Hình 1).
![]() |
Nguồn: Tổng cục Thống kê |
Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ hàng đầu thế giới (xếp thứ 23 thế giới năm 2023). Tỷ lệ tổng kim ngạch xuất nhập khẩu/GDP của Việt Nam – một chỉ số thể hiện độ mở của nền kinh tế, đã liên tục tăng trưởng ấn tượng trong những năm qua và đạt khoảng 158% năm 2023 (Hình 2). Đồng thời, hội nhập kinh tế cũng đã tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam tiếp cận các thị trường quốc tế và tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Điều này đã mở ra nhiều cơ hội mới cho DN Việt Nam và tạo ra sự đa dạng hóa trong các mối quan hệ thương mại và đầu tư.
![]() |
Nguồn: Tổng cục Thống kê |
Thứ hai, hội nhập kinh tế đã thu hút một lượng lớn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam. Vốn FDI đổ vào Việt Nam liên tục tăng qua các năm, đặc biệt từ sau khi Việt Nam tham gia WTO năm 2007 đến nay (Hình 3). DN nước ngoài đã đầu tư vào các lĩnh vực như công nghiệp chế biến, chế tạo, dịch vụ, du lịch, tài chính và cơ sở hạ tầng. Điều này đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo ra việc làm và nâng cao công nghệ sản xuất của Việt Nam. Theo số liệu của World Population Review, Việt Nam là quốc gia có lượng FDI đầu tư đạt mức cao thứ 3 ở khu vực Đông Nam Á và đứng thứ 22 trên thế giới vào năm 2023.
![]() |
Nguồn: Tổng cục Thống kê |
Thứ ba, hội nhập kinh tế giúp Việt Nam đa dạng hóa nền kinh tế, tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng hiện đại hóa, giảm sự phụ thuộc vào một số ngành công nghiệp truyền thống hay các nguồn lực tài nguyên. Trước khi hội nhập kinh tế, Việt Nam có sự phụ thuộc vào ngành nông nghiệp và nguồn lực thiên nhiên, như: ngành khai khoáng và ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản. Quá trình hội nhập đã giúp Việt Nam mở rộng và phát triển các ngành công nghiệp khác nhau, như: công nghiệp chế biến, điện tử, ô tô, dịch vụ tài chính, du lịch và nghề đóng tàu… Sự đa dạng hóa nền kinh tế giúp Việt Nam tăng cường khả năng cạnh tranh và giảm sự phụ thuộc vào một ngành hoặc nguồn lực duy nhất. Việc mở rộng và phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ mới như công nghệ thông tin, dịch vụ tài chính, du lịch và năng lượng tái tạo, giúp tăng cường sự đa dạng và mức độ tự chủ của nền kinh tế.
Thứ tư, hội nhập kinh tế đã mở rộng khả năng tiếp cận vốn và công nghệ từ các đối tác quốc tế. Việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và chuyển giao công nghệ đã góp phần nâng cao khả năng sản xuất và năng lực cạnh tranh của Việt Nam. Điều này cũng thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp hiện đại và tạo ra những ưu thế cạnh tranh cho Việt Nam trong khu vực và toàn cầu. Một ví dụ điển hình là các tập đoàn đa quốc gia, như: Samsung và Intel đã đầu tư mạnh mẽ vào Việt Nam. Samsung hiện chiếm hơn 50% tổng kim ngạch xuất khẩu điện tử của Việt Nam và đã đầu tư trên 18 tỷ USD vào các nhà máy sản xuất tại Bắc Ninh, Thái Nguyên và TP. Hồ Chí Minh. Đây là minh chứng cho khả năng hấp thụ vốn và công nghệ của Việt Nam, từ đó giúp nâng cao năng lực sản xuất và tăng tỷ trọng xuất khẩu các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao.
Bên cạnh đó, tỷ lệ nội địa hóa trong một số ngành công nghiệp đã tăng đáng kể nhờ quá trình chuyển giao công nghệ. Ví dụ, trong ngành công nghiệp ô tô, tỷ lệ nội địa hóa các sản phẩm của VinFast đã đạt khoảng 60% cho một số dòng xe, phản ánh khả năng học hỏi và ứng dụng công nghệ của các DN Việt Nam trong bối cảnh hội nhập. Việt Nam không chỉ hưởng lợi từ dòng vốn FDI, mà còn từ các cam kết chuyển giao công nghệ trong các dự án đầu tư quốc tế. Theo Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (World Bank) năm 2021, khoảng 30% DN FDI tại Việt Nam đã có hoạt động chuyển giao công nghệ cho các đối tác nội địa. Việc tiếp thu công nghệ mới đã giúp nhiều DN Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
NHỮNG HẠN CHẾ TRONG XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ
Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội và thành tựu mà hội nhập kinh tế đã đem lại, nền kinh tế Việt Nam còn đối diện với nhiều hạn chế trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, và chính quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo ra những khó khăn và thách thức trong quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ của Việt Nam.
(1) Khu vực DN, trung tâm của quá trình phát triển kinh tế chủ yếu là DN nhỏ và siêu nhỏ
Xét về quy mô, DN Việt Nam chủ yếu là DN siêu nhỏ. Nếu tính cả số lượng DN nhỏ và vừa, 97% số DN của Việt Nam có quy mô vốn nhỏ hơn 100 tỷ VND. Quy mô nhỏ kéo theo nhiều khó khăn về tiếp cận vốn, khả năng tiếp cận công nghệ cũng như cơ hội tham gia thị trường, phản ánh rõ ràng vào kết quả kinh doanh yếu kém của các DN (53.4% các DN siêu nhỏ kinh doanh thua lỗ trong năm 2022) (Hình 4).
Hình 4: Số lượng DN theo quy mô
![]() |
Nguồn: Tổng cục Thống kê |
(2) Các DN Việt Nam chủ yếu tập trung trong lĩnh vực dịch vụ
Các DN Việt Nam chủ yếu tập trung trong lĩnh vực dịch vụ với 68,2% tổng số DN (Hình 5). Các DN chế biến, chế tạo chủ yếu ở khâu lắp ráp, các DN hỗ trợ đóng vai trò quan trọng trong cung cấp nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất phát triển rất hạn chế. Với quy mô nhỏ, hoạt động chủ yếu trong các ngành thương mại có giá trị gia tăng thấp, có thể thấy rằng, năng lực nội tại của các DN Việt Nam còn rất hạn chế trong tương quan so sánh với DN nước ngoài. Các DN nội địa vẫn chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực phân phối và sản xuất phụ trợ trong thị trường thứ cấp, chưa thể cạnh tranh và làm chủ những ngành, lĩnh vực sản xuất cốt lõi của chuỗi sản xuất toàn cầu.
Hình 5: Số lượng DN theo lĩnh vực hoạt động
![]() |
Nguồn: Tổng cục Thống kê |
(3) Nhìn ở góc độ cơ cấu hàng hóa xuất - nhập khẩu, thì tính độc lập tự chủ về xuất nhập khẩu Việt Nam còn tương đối thấp, phụ thuộc nhiều vào các yếu tố bên ngoài
Mặc dù tình hình sản xuất của các DN Việt Nam trong những năm gần đây đã có sự phát triển tích cực và đạt được một số thành tựu quan trọng. Các DN Việt Nam ngày càng chú trọng vào nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua việc đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ và cải thiện quản lý, đẩy mạnh quá trình đổi mới công nghệ và số hóa để nâng cao hiệu suất sản xuất và tăng cường sự cạnh tranh, tăng cường đầu tư vào hoạt động nghiên cứu và phát triển để tạo ra sản phẩm và dịch vụ có giá trị gia tăng cao… Tuy nhiên, việc ứng dụng khoa học công nghệ vào ngành sản xuất vẫn còn nhiều hạn chế. Đây là một trong những điểm yếu làm kìm hãm tính tự chủ của nền sản xuất Việt Nam.
Ngoài ra, Việt Nam nhập khẩu chủ yếu các nguyên liệu và thiết bị phục vụ sản xuất trong nước, trong khi xuất khẩu chủ yếu tập trung vào các sản phẩm gia công và nguyên liệu thô. Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (2023b), nhập khẩu nguyên liệu và máy móc thiết bị chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu nhập khẩu của Việt Nam, khiến nền sản xuất trong nước dễ bị ảnh hưởng khi chuỗi cung ứng toàn cầu gián đoạn. Điều này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề sản xuất, chi phí nhập khẩu và rủi ro nếu thị trường quốc tế biến động, đứt gãy chuỗi cung ứng, mà còn khó khăn cho Nhà nước trong điều hành vĩ mô (như điều hành chính sách tỷ giá). Do đặc điểm các ngành sản xuất, nhập khẩu, xuất khẩu của Việt Nam phụ thuộc nhiều vào một số ít thị trường chủ chốt như EU, Hoa Kỳ và Trung Quốc. Một sự biến đổi trong thị trường này có thể ảnh hưởng đáng kể đến nền kinh tế và xuất khẩu của Việt Nam. Xuất siêu liên tục vào thị trường Hoa Kỳ đặt Việt Nam trước nguy cơ bị xếp vào danh sách thao thúng tiền tệ bất cứ lúc nào, từ đó tạo ra bất lợi cho hàng xuất khẩu vào Hoa Kỳ.
Sự tăng trưởng nhanh của xuất nhập khẩu ở Việt Nam trong những năm qua đã có đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, việc này cũng đồng nghĩa nền kinh tế Việt Nam dễ bị tác động, ảnh hưởng hơn từ những biến động về kinh tế, địa chính trị trên thế giới thông qua kênh thương mại. Xung đột vũ trang, căng thẳng chính trị và đứt gãy thương mại ở nhiều nơi đã khiến giá cước vận tải toàn cầu và lạm phát ở các thị trường xuất khẩu của Việt Nam tăng cao. Ngay lập tức vấn đề này có ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam khi xuất nhập khẩu là thành phần quan trọng của tổng cầu.
(4) Mở cửa thị trường và tiếp cận vốn từ nước ngoài cũng làm tăng sự phụ thuộc vào vốn ngoại tệ và thị trường tài chính quốc tế cũng như tăng tổn thất trong trường hợp xảy ra khủng hoảng tài chính toàn cầu
Khi Việt Nam vay vốn từ nước ngoài hoặc phụ thuộc vào đầu tư từ các nhà đầu tư nước ngoài, đồng nghĩa với việc chúng ta phải đối mặt với rủi ro liên quan đến biến động tỷ giá và các thay đổi chính sách tài chính, tiền tệ của các quốc gia khác và thị trường tài chính quốc tế. Nếu xảy ra khủng hoảng tài chính toàn cầu, như cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, lãi suất toàn cầu, áp lực tỷ giá tăng mạnh sẽ khiến các DN Việt Nam có thể đối mặt với tổn thất lớn trong việc trả nợ và duy trì hoạt động kinh doanh. Một ví dụ gần đây là trong giai đoạn 2022-2023, khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) liên tục tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát, lãi suất USD tăng đã kéo theo chi phí vay ngoại tệ của các DN Việt Nam gia tăng. Theo dữ liệu từ Ngân hàng Thế giới (2023a), mức lãi suất cơ bản của Mỹ đã tăng từ 0,25% vào đầu năm 2022 lên khoảng 5% vào giữa năm 2023, ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí vay nợ quốc tế của các DN Việt Nam và làm gia tăng áp lực thanh toán nợ nước ngoài.
(5) Việc tham gia vào các FTA có khả năng ảnh hưởng đến các quyết định về chính sách và pháp luật của các thành viên tham gia
Khi tham gia vào FTA, các quốc gia thường phải cam kết tuân thủ một số quy tắc và điều kiện được đưa ra trong hiệp định đó. Các FTA thường đề cập đến các lĩnh vực, như: thuế quan, các rào cản phi thuế, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, quyền lao động, quyền môi trường và các quy tắc về tranh chấp thương mại... Khi ký kết và thực hiện hiệp định này, các quốc gia phải điều chỉnh chính sách và pháp luật của mình để tuân thủ các quy định trong hiệp định.
Vì vậy, khi điều chỉnh chính sách và pháp luật để đáp ứng các quy tắc và điều kiện của các FTA, thì Việt Nam cần phải đảm bảo các yếu tố khác như lợi ích kinh tế, chính trị và xã hội của quốc gia. Việc xây dựng chính sách và pháp luật cần dựa trên tinh thần linh hoạt, phù hợp với tình hình trong nước và mục tiêu phát triển của quốc gia. Việc tham gia vào các FTA ảnh hưởng đến các quyết định về chính sách và pháp luật của các quốc gia, nhưng phải đảm bảo nó không làm mất đi quyền tự chủ và khả năng tự quyết của quốc gia. Đây cũng là một thách thức không nhỏ đối với Việt Nam, trong khi hệ thống pháp luật, chính sách của chúng ta chưa thật sự hoàn thiện và đồng bộ, những hạn chế trong xây dựng hệ thống pháp luật chưa được khắc phục.
(6) Những năm gần đây, Việt Nam có xu hướng ngày càng phụ thuộc vào các DN FDI
Vốn FDI vào Việt Nam gia tăng cho thấy sự phụ thuộc ngày càng lớn vào vốn FDI từ các DN nước ngoài. Các DN FDI đã có những đóng góp quan trọng vào kinh tế Việt Nam, tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người dân và đóng góp vào nguồn thu ngân sách nhà nước thông qua việc đóng thuế. Theo Tổng cục Thống kê Việt Nam, vào năm 2005, tỷ lệ FDI đóng góp vào GDP của Việt Nam đạt 15,2% thì năm 2022 đã là 20,46%. Hình 6 cho thấy đóng góp của các khu vực kinh tế vào GDP của Việt Nam.
![]() |
Nguồn: Tổng cục Thống kê |
Các công ty lớn như Samsung, Intel, Honda và nhiều công ty khác đã đầu tư mạnh mẽ vào Việt Nam và đóng góp quan trọng vào các ngành công nghiệp: điện tử, ô tô, dệt may, điện lạnh và công nghệ thông tin Việt Nam. Tuy nhiên, việc đón nhận nguồn đầu tư lớn từ nước ngoài cũng mang lại một số thách thức và hạn chế phát sinh từ sự phụ thuộc này. Phụ thuộc quá mức vào các DN FDI có thể tạo ra rủi ro cho nền kinh tế Việt Nam. Nếu các DN FDI rời bỏ hoặc giảm đầu tư, có thể gây ra sự chệch lệch và thiếu ổn định trong các ngành công nghiệp chủ chốt. Mặc dù các DN FDI mang theo công nghệ tiên tiến, nhưng việc chuyển giao công nghệ và quy trình quản lý từ các DN này cho DN Việt Nam vẫn còn hạn chế. Việc nắm bắt và áp dụng công nghệ mới vẫn đòi hỏi sự đầu tư lớn từ phía Việt Nam để phát triển năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực này. Phụ thuộc vào các DN FDI cũng có thể tạo ra mối quan hệ thương mại không cân bằng. Chỉ có khoảng 10% DN nội địa đã tham gia vào chuỗi cung ứng của các DN FDI đang hoạt động tại Việt Nam và chỉ có khoảng 26,6% giá trị đầu vào của khu vực này được mua từ các nhà bán hàng ở Việt Nam. Các DN FDI thường nhập khẩu nhiều nguyên liệu và thiết bị từ nước ngoài, trong khi xuất khẩu sản phẩm đã chế biến trở lại. Điều này có thể dẫn đến sự phụ thuộc vào chuỗi cung ứng quốc tế và khó khăn trong việc tạo ra giá trị gia tăng tại Việt Nam.
![]() |
Nguồn: Tổng cục Thống kê |
Dữ liệu từ Hình 7 tổng hợp từ số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, từ năm 1995 tới 2023, khu vực FDI đang có sự vượt lên và chiếm tỷ trọng lớn hơn trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Năm 1995, khu vực này mới chiếm 27% giá trị xuất khẩu, cân bằng với khu vực trong nước năm 2003 và đến nay, khu vực FDI chiếm tới 73% giá trị kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỂ TIẾP TỤC XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ, ĐƯA VIỆT NAM BƯỚC VÀO KỶ NGUYÊN MỚI
Một là, xây dựng chiến lược phát triển giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ phù hợp với bối cảnh mới
Việc nâng cấp chất lượng nguồn nhân lực và trình độ khoa học công nghệ là yếu tố tiên quyết để đảm bảo nền kinh tế độc lập, tự chủ và bền vững. Theo báo cáo của World Bank (2022), chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam chỉ đạt mức 44,3 trên thang điểm 100, xếp thứ 88/174 quốc gia, còn thấp hơn nhiều nước trong khu vực như Thái Lan và Malaysia. Bên cạnh đó, đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D) của Việt Nam vẫn chỉ chiếm khoảng 0,53% GDP trong giai đoạn 2020-2022 (Bộ Khoa học và Công nghệ, 2022), trong khi mức trung bình của các nước OECD là khoảng 2,4% GDP. Điều này cho thấy Việt Nam cần có chiến lược cụ thể để cải thiện nguồn nhân lực và thúc đẩy nghiên cứu khoa học, tiếp cận công nghệ hiện đại nhằm nâng cao năng lực quản trị và cạnh tranh quốc tế.
Hai là, hoàn thiện thể chế thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế tư nhân
Kinh tế tư nhân đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế độc lập, tự chủ. Năm 2022, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp hơn 40% GDP, tạo việc làm cho khoảng 85% lao động phi nông nghiệp (Tổng cục Thống kê, 2022). Tuy nhiên, theo báo cáo của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI, 2022), các DN tư nhân vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận nguồn lực và chính sách hỗ trợ chưa thực sự đồng bộ, hiệu quả. Chính phủ cần đảm bảo chính sách hỗ trợ phù hợp, khả thi và tránh tình trạng "lợi ích nhóm", thao túng chính sách, gây cản trở cạnh tranh lành mạnh. Việc tạo lập môi trường kinh doanh minh bạch, công bằng sẽ khuyến khích các DN đầu tư bài bản, đổi mới công nghệ và phát triển bền vững.
Ba là, nâng cao năng lực nội tại và trách nhiệm của khu vực kinh tế tư nhân
Đội ngũ doanh nhân cần được nâng cao năng lực quản trị và ý thức tuân thủ pháp luật. Theo khảo sát của OECD (2021), doanh nhân trong khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam còn hạn chế về kỹ năng quản lý và khả năng hội nhập kinh tế toàn cầu. Bên cạnh đó, giáo dục tư duy kinh doanh và khởi nghiệp cần được chú trọng ngay từ các cấp học phổ thông và đại học để xây dựng thế hệ doanh nhân trẻ có tinh thần đổi mới sáng tạo và trách nhiệm với cộng đồng.
Bốn là, xây dựng cơ chế thúc đẩy liên kết giữa DN FDI và DN tư nhân trong nước
Hiện tại, các DN FDI đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, chiếm hơn 70% tổng kim ngạch xuất khẩu (Tổng cục Hải quan, 2022), song sự kết nối và chuyển giao công nghệ giữa DN FDI và DN nội địa còn hạn chế. Để giải quyết vấn đề này, cần có chính sách khuyến khích hợp tác và chuyển giao công nghệ, giúp DN Việt Nam học hỏi kỹ năng quản lý và tiếp cận công nghệ hiện đại.
Thứ năm, chú trọng phát triển thị trường nội địa với quy mô hơn 100 triệu dân
Thị trường nội địa là một trong những trụ cột quan trọng để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Theo Báo cáo của Bộ Công Thương (2023), tiêu thụ hàng hóa nội địa của Việt Nam đã đạt gần 190 tỷ USD vào năm 2022. Tuy nhiên, hàng Việt Nam vẫn gặp khó khăn trong việc cạnh tranh với các sản phẩm nhập khẩu. Việc nâng cao chất lượng, đa dạng hóa sản phẩm và đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng sẽ giúp hàng Việt Nam gia tăng sức cạnh tranh ngay trên “sân nhà”.
Sáu là, ưu tiên có giải pháp phát triển ngành công nghiệp phụ trợ
Phát triển công nghiệp phụ trợ là yếu tố then chốt giúp Việt Nam giảm phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu và linh kiện nhập khẩu, từ đó tăng tính tự chủ cho nền kinh tế. Hiện tại, công nghiệp phụ trợ của Việt Nam mới đáp ứng khoảng 30-35% nhu cầu nguyên liệu sản xuất trong nước (Bộ Công Thương, 2023). Trong lĩnh vực điện tử, tỷ lệ nội địa hóa chỉ đạt khoảng 10% đối với các sản phẩm của các tập đoàn lớn như Samsung và Intel. Theo JETRO (2022), nhiều DN nước ngoài sẵn sàng sử dụng nhà cung cấp nội địa nếu chất lượng và năng lực đáp ứng được yêu cầu. Phát triển công nghiệp phụ trợ sẽ nâng cao năng lực cạnh tranh và giảm rủi ro phụ thuộc vào chuỗi cung ứng quốc tế.
KẾT LUẬN
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã mang đến cho Việt Nam nhiều cơ hội phát triển, như: mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ hiện đại. Tuy nhiên, hội nhập cũng đặt ra không ít thách thức, đặc biệt là nguy cơ phụ thuộc vào nguồn vốn, công nghệ, nguyên liệu từ nước ngoài và chịu tác động từ các biến động kinh tế, chính trị toàn cầu. Để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh hội nhập, Việt Nam cần thực hiện đồng bộ các giải pháp như cải thiện chất lượng nguồn nhân lực; hoàn thiện thể chế hỗ trợ khu vực kinh tế tư nhân; thúc đẩy liên kết giữa DN FDI và DN trong nước; phát triển thị trường nội địa và phát triển công nghiệp phụ trợ. Thực hiện hiệu quả các giải pháp trên sẽ giúp Việt Nam tận dụng được các lợi thế từ hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời nâng cao năng lực nội tại để ứng phó với các thách thức từ bên ngoài. Đây là những điều kiện tiên quyết để đảm bảo nền kinh tế Việt Nam phát triển độc lập, tự chủ, bền vững và hướng tới những mục tiêu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới./.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Công Thương (2023), Báo cáo phát triển công nghiệp phụ trợ Việt Nam.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2024), Sách trắng Doanh nghiệp 2024.
3. Bộ Khoa học và Công nghệ (2022), Báo cáo đầu tư cho nghiên cứu và phát triển tại Việt Nam.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
5. JETRO (2022), Survey on Business Conditions of Japanese Companies in Asia and Oceania.
6. Neufeld, D., Lam, S. (2024), Ranked: The World’s 30 Largest Exporters, Visual Capitalist, retrieved from https://www.visualcapitalist.com/the-worlds-largest-exporters-of-goods/.
7. OECD (2021), SME and Entrepreneurship Policy in Vietnam, OECD Publishing.
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2022), Báo cáo thường niên doanh nghiệp Việt Nam.
8. Samsung Vietnam (2023), Samsung's 18 Billion USD Investment in Vietnam: Contributing to Economic Development. retrieved from https://www.samsung.com/vn.
Tổng cục Hải quan (2022), Báo cáo tình hình xuất nhập khẩu Việt Nam.
9. Tổng cục Thống kê (2024), Số liệu về tài chính và kinh tế vĩ mô.
10. Tổng cục Thống kê (2022), Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam năm 2022.
11. VinFast (2022), Tỷ lệ nội địa hóa trong ngành công nghiệp ô tô tại Việt Nam, truy cập từ https://vinfastauto.com
12. WEF (2022), Global Supply Chain Risks and Emerging Economies.
13. World Bank (2021), World Bank in Vietnam: Technology Transfer and FDI Impact.
14. World Bank (2022), Vietnam’s Economic Update. World Bank Group.
15. World Bank (2023a), Global Economic Prospects: Rising Interest Rates and Emerging Economies, World Bank Group.
16. World Bank (2023b), Vietnam’s Economic Update: Trade and Resilience. World Bank Group, retrieved from https://www.worldbank.org/en/country/vietnam.
17. World Population Review (2024), FDI by country 2024, retrieved from https://worldpopulationreview.com/country-rankings/fdi-by-country.
18. WTO (2022), Vietnam’s Trade Performance and External Dependence, WTO Annual Report.
TS. Phí Thị Hằng, PGS,TS. Đinh Thị Nga, ThS. Lê Thạch Anh
Viện Kinh tế - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(Theo Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 01, tháng 01/2025)
* Đây là sản phẩm của Đề tài KX02.22/21-25 “Nghiên cứu, vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong phát triển khu vực kinh tế ngoài nhà nước thời kỳ Đổi mới”
Bình luận