Thể chế cho phát triển kinh tế số trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam*
Từ khóa: Thể chế, kinh tế số, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Summary
Digital economic institutions and digital technology applications help build a transparent, accountable, and innovative governance system, creating momentum for rapid and sustainable development in the new era of development. The article provides an overview of the digital economy and institutional requirements for digital economic development, assesses the current situation of formation and development of digital economic institutions in Vietnam, identifies existing problems, and proposes solutions.
Keywords: Institutions, digital economy, the era of nation’s rise
ĐẶT VẤN ĐỀ
“Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam” là thông điệp của Tổng Bí thư Tô Lâm trong một số bài viết, bài phát biểu quan trọng trong những sự kiện quan trọng của đất nước thời gian qua. Thông điệp của người đứng đầu Đảng như lời hiệu triệu, thúc giục tinh thần hành động, đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm để thực hiện khát vọng xây dựng đất nước Việt Nam “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Với thế và lực được tích lũy sau 40 năm Đổi mới, đất nước đã hội tụ đủ những điều kiện cần thiết và Văn kiện Đại hội XIV phải đề ra được định hướng chiến lược, nhiệm vụ, giải pháp quan trọng nhằm giải phóng toàn bộ sức sản xuất, phát huy tối đa nội lực, trạnh thủ ngoại lực, lấy nguồn lực nội sinh, nguồn lực con người làm nền tảng, khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo là đột phá để đưa đất nước bước vào kỳ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.
Trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, xây dựng một thể chế kinh tế số theo tinh thần: “Chuyển đổi số không đơn thuần là việc ứng dụng công nghệ số vào các hoạt động kinh tế - xã hội, mà còn là quá trình xác lập một phương thức sản xuất mới tiên tiến, hiện đại – Phương thức sản xuất số”[1] nhằm quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả và linh hoạt không chỉ đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, mà còn là nền móng để hiện thực hóa khát vọng phát triển của Việt Nam. Có thể nói, thể chế kinh tế số và ứng dụng công nghệ số là một trong những trụ cột giúp xây dựng hệ thống quản trị minh bạch, trách nhiệm và đổi mới, đáp ứng nhu cầu của người dân và tạo động lực phát triển nhanh và bền vững trong kỷ nguyên phát triển mới.
KHÁI QUÁT VỀ KINH TẾ SỐ VÀ YÊU CẦU VỀ THỂ CHẾ CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ SỐ
Bản chất, đặc trưng của kinh tế số
Thuật ngữ “Kinh tế số” (tiếng Anh là digital economy) xuất hiện trước Cách mạng công nghiệp lần thứ tư 4 (CMCN 4.0) và được hiểu: “Kinh tế số là một nền kinh tế vận hành chủ yếu dựa trên công nghệ số, đặc biệt là các giao dịch điện tử tiến hành thông qua internet” (Harbhajan S. Kehal, Varinder P. Singh (2005). Tuy nhiên, cùng với sự xuất hiện của CMCN 4.0, xu hướng số hóa hay công cuộc chuyển đổi số thực sự xuất hiện mạnh mẽ ở mọi lĩnh vực, bởi “cốt lõi” của CMCN 4.0 chính là chuyển đổi số, sự tích hợp của số hóa, kết nối/siêu kết nối và xử lý dữ liệu thông minh, cụ thể: (i) Thương mại điện tử, sự phát triển của internet đã tạo ra môi trường thương mại điện tử mạnh mẽ, cho phép mua - bán hàng hóa và dịch vụ trực tuyến (chẳng hạn như các công ty Amazon và Alibaba đã xây dựng các nền tảng thương mại điện tử lớn, tạo ra cơ hội kinh doanh mới và tăng cường tính toàn cầu của thương mại); (ii) Công nghệ FinTech (Financial Technology) là lĩnh vực sử dụng công nghệ số để cung cấp các dịch vụ tài chính hiệu quả và tiện ích (ví dụ, các ứng dụng thanh toán di động, như :Mono, Vnpay, Apple Pay… cho phép người dùng chuyển tiền và thanh toán hàng hóa bằng điện thoại thông minh); (iii) Trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence) là một lĩnh vực khoa học máy tính liên quan đến việc phát triển các hệ thống có khả năng tự học và thực hiện các nhiệm vụ thông minh (trong kinh tế số, trí tuệ nhân tạo được sử dụng để xử lý và phân tích dữ liệu lớn, dự đoán xu hướng thị trường, tối ưu hóa hoạt động kinh doanh và tạo ra trải nghiệm cá nhân hóa khách hàng); (iv) Internet of Things (IoT) là một mạng lưới thiết bị điện tử kết nối với nhau và với internet (trong kinh tế số, IoT cho phép thu thập dữ liệu từ các cảm biến và thiết bị thông minh, từ đó tạo ra thông tin hữu ích để quản lý và tối ưu hóa các quy trình sản xuất, vận chuyển và tiêu dùng); (v) Blockchain là một công nghệ lưu trữ và truyền tải thông tin một cách an toàn và minh bạch thông qua mạng lưới phân tán (trong kinh tế số, blockchain có thể được sử dụng để xác định giao dịch tài chính, quản lý chuỗi cung ứng, tăng cường bảo mật và sự tin cậy trong các giao dịch trực tuyến). Bên cạnh đó, trong Chương trình “Sáng kiến hợp tác và phát triển kinh tế kỹ thuật số G20” tại Hội nghị thượng đỉnh G20 năm 2016 nhấn mạnh: Nền kinh tế số đề cập đến các hoạt động kinh tế sử dụng hiệu quả công nghệ thông tin và truyền thông làm động lực chính để nâng cao hiệu quả và tối ưu hóa cơ cấu kinh tế, trong đó kiến thức số và thông tin số là phương tiện chính mang lại hiệu quả cho nền kinh tế.
![]() |
Thể chế kinh tế số và ứng dụng công nghệ số là một trong những trụ cột giúp xây dựng hệ thống quản trị minh bạch, trách nhiệm và đổi mới, đáp ứng nhu cầu của người dân và tạo động lực phát triển nhanh và bền vững trong kỷ nguyên phát triển mới |
Mặc dù khái niệm tiếp cận ở góc độ khác nhau, xét về bản chất, kinh tế số là mô hình và phương thức hoạt động dựa trên nền tảng ứng dụng công nghệ số vào các phạm vi (lĩnh vực) khác nhau, như: nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, logictics, ngân hàng, tài chính… Chính vì vậy, kinh tế số có đặc trưng khác biệt so với nền kinh tế truyền thống trước đây, sự khác biệt đó thể hiện ở các khía cạnh: (i) Dữ liệu (data) đã trở thành yếu tố sản xuất quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; (ii) Thể chế phát triển được thiết lập trên nền tảng kết cấu hạ tầng số; (iii) Quản lý nhà nước và quản lý doanh nghiệp dựa trên mô hình quản trị số; (iv) Kinh tế số, quản trị số và thể chế số đang từng bước trở thành đặc trưng quan trọng trong phát triển kinh tế, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc trên một số khía cạnh: (1) Hình thành Nhà nước pháp quyền theo hướng minh bạch, trách nhiệm giải trình nhằm đáp ứng kỳ vọng của người dân và xã hội ở mức cao; (2) Thể chế số, kinh tế số tạo ra sự đồng thuận, cơ hội và công bằng cho mỗi cá nhân phát huy tiền năng, thế mạnh trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; (3) Quản trị tổng thể, quản trị theo mục tiêu, phát triển bền vững và mang tính toàn cầu gắn chặt với thể chế cho phát triển kinh tế số.
Những yêu cầu về thể chế cho phát triển kinh tế số
Yêu cầu khoa học lý luận về thể chế cho phát triển kinh tế số
Thể chế là những nguyên tắc, luật pháp, bộ máy quản lý và cơ chế vận hành nhằm điều chỉnh các hoạt động của con người trong một chế độ xã hội[2]. Thể chế có thể được phân loại thành: thể chế chính trị; thể chế kinh tế; thể chế xã hội... Thể chế kinh tế là những nguyên tắc, luật pháp, bộ máy quản lý và cơ chế vận hành nhằm điều chỉnh hành vi của các chủ thể trong nền kinh tế. Do vậy, thể chế kinh tế số thuộc về thể chế kinh tế và cũng từ khái niệm kinh tế số và khái niệm thể chế kinh tế, có thể hiểu một cách ngắn gọn: Thể chế kinh tế số là những nguyên tắc, luật pháp, bộ máy quản lý và cơ chế vận hành nhằm điều chỉnh hành vi của các chủ thể tham gia vào nền kinh tế số. Chính vì vậy, xây dựng và hoàn thiện thể chế cho phát triển kinh tế số là hướng tới những nội dung cụ thể: (1) Hoàn thiện những quy tắc, pháp luật điều chỉnh hành vi của các chủ thể tham gia vào nền kinh tế số; (2) Tiếp tục hoàn thiện bộ máy quản lý và cơ chế vận hành nền kinh tế số; (3) Tích hợp yếu tố (nguồn lực vật chất và phi vật chất) cần thiết để quốc gia có thể thực hiện chuyển đổi số thành công, nâng cao năng suất, góp phần chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng tăng trưởng nhanh, xanh và bền vững.
Yêu cầu thực tiễn về phát triển kinh tế số
Việt Nam đang có lợi thế nhất định, với môi trường chính trị, xã hội ổn định, cùng với nền kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, có dân số tỷ lệ người trẻ còn cao, nhanh nhạy trong nắm bắt công nghệ, nằm trong tốp đầu các quốc gia có tốc độ tăng trưởng về số người dùng internet, điện thoại thông minh và sử dụng mạng xã hội. Đồng thời, tính cách người Việt thông minh, nhanh nhạy và thích ứng với sự thay đổi, thích sử dụng công nghệ là điều kiện để triển khai nền kinh tế số trong mọi lĩnh vực từ số hóa Chính phủ, số hóa xã hội và số hóa các doanh nghiệp. Ngành viễn thông công nghệ thông tin đã tạo ra hạ tầng viễn thông 3G, 4G phủ 95% cả nước, hiện đang bắt đầu triển khai 5G, đây là một nền tảng quan trọng của nền kinh tế số ở Việt Nam. Cùng với quyết tâm chính trị, nền tảng thể chế và công nghệ được đánh giá ở mức khá tích cực so với khu vực, chính là những cơ sở để Việt Nam thúc đẩy chuyển đổi nhanh thành công từ nền kinh tế truyền thống sang nền kinh tế số.
Yêu cầu về thể chế cho phát triển kinh tế số
Về quan điểm phát triển kinh tế số, Đảng đã xác định rõ lộ trình “từng bước phát triển kinh tế số”, “phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo”. Văn kiện Đại hội XIII xác định, đến năm 2025 kinh tế số đạt tỷ trọng 20% GDP, đến năm 2030 kinh tế số chiếm khoảng 30%. Để đạt được mục tiêu, Văn kiện Đại hội XIII cũng nhấn mạnh: (1) Yêu cầu cải thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo, phát triển các ngành, lĩnh vực, các doanh nghiệp trên nền tảng ứng dụng công nghệ số; (2) Tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế để phát triển kinh tế số, xã hội số; (3) Phát triển mạnh hạ tầng công nghệ thông tin, xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng dữ liệu quốc gia, vùng, địa phương kết nối đồng bộ, thống nhất tạo nền tảng phát triển kinh tế số, xã hội số… Văn kiện Đại hội XIII chỉ rõ: “Thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, xã hội số để tạo bứt phá về năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh cho nền kinh tế”.
KHÁI QUÁT VỀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ SỐ VÀ THỂ CHẾ KINH TẾ SỐ Ở VIỆT NAM
Thực trạng phát triển kinh tế số ở Việt Nam
Ở Việt Nam, nếu các cấu phần kinh tế số, có thể nói kinh tế số xuất hiện từ khi có máy tính, đặc biệt là khi có máy tính cá nhân vào cuối những năm 80 và bắt đầu phát triển mạnh mẽ kể từ thời điểm cuối những năm 90 của thế kỷ XX, khoảng thời gian internet có mặt tại Việt Nam. Trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI, Việt Nam đã chứng kiến một sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế số, đặc biệt là một số lĩnh vực sau:
(1) Thị trường thương mại điện tử (e-commerce): Sự phát triển của internet và smartphone đã thúc đẩy mạnh mẽ việc mua sắm trực tuyết ở Việt Nam. Các nền tảng thương mại điện tử, như: Shopee, Lazada và Tiki đã trở thành những điểm đến phổ biến cho người tiêu dùng, tạo cơ hội lớn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển. Theo báo cáo của Bộ Công Thương năm 2023, quy mô thị trường thương mại điện tử và bán lẻ tăng thêm khoảng 4 tỷ USD (tăng 25%) so với năm 2022, đạt 20,5 tỷ USD (dự báo trong giai đoạn 2022-2025, kinh tế internet Việt Nam sẽ có tốc độ tăng trưởng dẫn đầu trong khu vực đạt khoảng 31%/năm).
(2) Thanh toán trực tuyến, phát triển của công nghệ FinTech: Lĩnh vực tài chính công nghệ đang phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam, với sự xuất hiện của các ứng dụng và dịch vụ như công cụ quản lý tài chính cá nhân, vay tiền trực tuyến và chuyển tiền điện tử. Điều này giúp tăng cường tiện ích và tiết kiệm thời gian cho người dùng như ví điện tử, thẻ tín dụng và các ứng dụng thanh toán di động Momo, ZaloPay... góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch điện tử thương mại.
(3) Công nghiệp số hóa trong các ngành công nghiệp truyền thống, công nghiệp công nghệ thông tin và truyền thông: Các ngành công nghiệp truyền thống như ngân hàng, bất động sản, giáo dục đang chuyển đổi số hóa để cung cấp các dịch vụ tiện ích và tối ưu hóa quy trình làm việc. Việt Nam là một trong những quốc gia thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông, với số lượng dự án tăng đáng kể (như: Agency, Ogilvy & Mather Việt Nam...) đưa lại doanh thu lên tới 20,6 tỷ USD vào quý I/2023 (tăng trưởng 5% so với năm trước cùng quý) (Bộ Thông tin và Truyền thông, 2023).
(4) Phát triển của công nghệ Blockchain và trí tuệ nhân tạo: Công nghệ blockchain và trí tuệ nhân tạo đang được ứng dụng rộng rãi trong các lĩnh vực như tài chính, logictics và y tế ở Việt Nam, tạo ra nhiều tiềm năng lớn cho cải thiện hiệu suất, nhiều cơ hội mới cho sự phát triển nền kinh tế số Việt Nam.
Đánh giá thực trạng hình thành, phát triển thể chế về kinh tế số ở Việt Nam
Kết quả đạt được
- Đảng và Nhà nước đang từng bước hình thành, hoàn thiện thể chế về kinh tế số ở Việt Nam thời gian qua: Trên cơ sở quan điểm, đường lối của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết 52-NQ/TW, ngày 17/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trong những năm gần đây Nhà nước Việt Nam đã thường xuyên ban hành các chiến lược, chương trình và kế hoạch tổng thể liên quan đến phát triển kinh tế số, có thể kể đến như: Phê duyệt quy hoạch phát triển an ninh công nghệ thông tin quốc gia đến năm 2020 (Quyết định số 63/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ngày 13/01/2010); Quy hoạch tổng thể phát triển khu công nghiệp thông tin tập trung đến năm 2020 và định hướng đến năm 2025 (Quyết định số 2407/QĐ-TTg, ngày 31/12/2014); Phê duyệt Chương trình mục tiêu phát triển Công nghệ thông tin đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025 (Quyết định số 392/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ngày 27/03/2015); Chương trình hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025 (Quyết định số 844/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ngày 18/05/2016); Nghị quyết về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 (Nghị quyết số 16/2021/QH15 của Chủ tịch Quốc hội, ngày 27/07/2021); Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng; Chương trình hành động của Chính phủ nhiệm kỳ 2021-2026 thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025... Nhà nước cũng liên tục cập nhật về các văn bản pháp lý liên quan đến nền kinh tế số. Ứng phó với những rủi ro về quyền riêng tư, rủi ro trong kinh doanh trên thị trường thương mại điện tử, bảo mật doanh nghiệp, bí mật quốc gia, Nhà nước đã ban hành các bộ luật và các chính sách phù hợp để có thể giảm thiểu rủi ro cũng như tạo ra sự thuận lợi để phát triển kinh tế số. Chính phủ cũng đã ban hành các văn bản hướng dẫn để tạo ra khung pháp lý cho nền kinh tế số được vận hành thông thóang.
- Vai trò của các cơ quan trong bộ máy nhà nước và phát triển kinh tế số ở việt Nam là khá rõ ràng, cụ thể: (1) Ngân hàng Nhà nước có chức năng điều tiết các hoạt động về ngân hàng điện tử, công nghệ số, thanh toán điện tử và phi tiền mặt; (2) Bộ Khoa học và Công nghệ điều tiết các hoạt động về Nghiên cứu và phát triển, đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh việc ứng dụng, nghiên cứu, phát triển và chuyển giao các công nghệ chủ chốt của CMCN 4.0; (3) Bộ Thông tin và Truyền thông điều tiết và lập kế hoạch phát triển trong lĩnh vực xuất bản, truyền thông, thông tin, bưu chính, công nghệ thông tin và truyền thông, phát thanh và hệ thống thông tin quốc gia; (4) Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có trách nhiệm trong việc phát triển đội ngũ nhân sự trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông; (5) Bộ Tài chính quản lý về ngân hàng điện tử và tài chính điện tử, xây dựng chính sách thuế và tài chính để thúc đẩy các ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông; (6) Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội để đẩy mạnhcCông nghệ thông tin và truyền thông và ứng dụng công nghệ số; (7) Các bộ, ban ngành và UBND các tỉnh lập kế hoạch hành động và đẩy mạnh ứng dụng Công nghệ thông tin và truyền thông tại các khu vực và tỉnh thành... Ngoài ra, Uỷ ban Quốc gia về ứng dụng Công nghệ thông tin về giám sát và thực hiện các đề án quốc gia về Công nghệ thông tin.
- Đảng và Nhà nước từng bước kiện toàn bộ máy quản lý kinh tế số: Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 1619/QĐ-TTg, ngày 24/9/2021 kiện toàn và đổi tên Uỷ ban Quốc gia về Chính phủ điện tử thành Uỷ ban Quốc gia về chuyển đổi số. Bên cạnh đó, hành lang pháp lý trong ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng Chính phủ điện tử đã dần được thiết lập. Một số cơ sở dữ liệu mang tính chất nền tảng thông tin như: Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, Cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia đang được xây dựng và đã có những cấu phần đi vào vận hành. Các cơ quan nhà nước đã cung cấp một số dịch vụ công trực tuyến thiết lập cho doanh nghiệp và người dân như: đăng ký doanh nghiệp, kê khai thuế, nộp thuế, hải quan điện tử, bảo hiểm xã hội...
Những hạn chế trong thể chế phát triển kinh tế số
Thứ nhất, môi trường pháp lý và thể chế phát triển kinh tế còn yếu, chưa đồng bộ, nên chưa khai thác hết tiềm năng để phát triển kinh tế số. Điển hình, mặc dù khoa học - công nghệ phát triển nhanh chóng, nhưng sự phát triển kinh tế số tạo ra những lúng túng nhất định cho các cơ quan nhà nước trong một số vấn đề, như: quản lý và thu thuế đối với hoạt động thương mại trực tuyến; đảm bảo quyền lợi cho người lao động và người tiêu dùng qua thương mại điện tử; xử lý, giải quyết những tranh chấp, xung đột về hoạt động, lợi ích của các chủ thể tham gia các hoạt động kinh doanh, thương mại và dân sự trên môi trường số; các vấn đề về quản lý fintech...
Thứ hai, các quy định về bảo vệ cơ sở dữ liệu, dữ liệu cá nhân, thông tin riêng tư còn chưa đầy đủ (như vấn đề quyền cá nhân, đạo đức khi ứng dụng trí tuệ nhân tạo; định danh số và xác thực điện tử cho người dân...). Đồng thời, khung pháp lý còn chưa đồng bộ về xây dựng Chính phủ điện tử và cơ chế bảo đảm thực thi nhiệm vụ xây dựng Chính phủ điện tử chưa đủ mạnh nên kết quả triển khai nhiều nhiệm vụ về Chính phủ điện tử vẫn còn chậm và nhiều nơi thực hiện còn mang tính hình thức. Bên cạnh đó, chưa có cơ chế giảm thiểu tác động tiêu cực và bộ máy quản lý thực sự hiệu quả để ngăn ngừa triệt để tình trạng gian lận thương mại, trốn thuế, thông tin giả mạo, độc hại...; do đó, đấu tranh với tội phạm, đảm bảo an ninh trên không gian mạng còn nhiều thách thức.
Thứ ba, các quy định thường không theo kịp với tốc độ số hóa nhanh chóng của nền kinh tế, còn có khoảng cách giữa quy định pháp luật với việc thực thi trong thực tế, chưa có hành lang pháp lý cho thí điểm triển khai áp dụng các mô hình kinh doanh, dịch vụ mới.
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THỂ CHẾ CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ SỐ TRONG KỶ NGUYÊN VƯƠN MÌNH CỦA DÂN TỘC
Thứ nhất, đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của toàn xã hội về chuyển đổi số và phát triển kinh tế số
Cần có sự quan tâm sâu sắc của cấp ủy, chính quyền các cấp trong vấn đề nâng cao trình độ nhận thức của xã hội về chuyển đổi số. Tăng cường, đổi mới phương pháp tuyên truyền qua các phương tiện truyền thông đại chúng, các phương tiện truyền thông xã hội. Xây dựng các kế hoạch cụ thể, quy mô lớn để phổ cập kiến thức về chuyển đổi số đến mọi người dân. Phát triển chiến lược quảng bá và tiếp thị để tăng cường nhận thức và sử dụng các dịch vụ và sản phẩm kỹ thuật số. Khuyến khích sự hợp tác giữa các tổ chức kinh doanh, Chính phủ và các đối tác khác để tạo ra chiến dịch tiếp thị hiệu quả. Tổ chức hội nghị, hội thảo nhằm kết nối và chia sẻ thông tin, kinh nghiệm cũng như tăng cường kiến thức về chuyển đổi số đến các địa phương, doanh nghiệp và cộng đồng.
Thứ hai, tạo môi trường pháp lý ổn định, thuận lợi, hoàn thiện thể chế, chính sách cho phát triển kinh tế số
Cần có chính sách, quy định pháp luật linh hoạt, thích ứng để khuyến khích đầu tư, phát triển các lĩnh vực kinh tế số, đồng thời bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và doanh nghiệp thông qua việc thực hiện các quy định, luật liên quan. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho kinh tế số như tăng cường hợp tác công tư để thúc đẩy phát triển các dự án, sáng kiến kinh tế số. Khuyến khích doanh nghiệp công nghệ, doanh nghiệp khởi nghiệp công nghệ như: tạo môi trường kinh doanh thân thiện, ổn định, hỗ trợ cho doanh nghiệp công nghệ, doanh nghiệp khởi nghiệp, khuyến khích đổi mới sáng tạo. Tạo cơ hội tài chính, cơ hội hợp tác giữa doanh nghiệp và các tổ chức nghiên cứu phát triển. Hỗ trợ nghiên cứu, phát triển sản phẩm công nghệ mới. Nâng cao hiệu quả các gói chính sách hỗ trợ chuyển đổi số cho doanh nghiệp, nhất là chính sách về vốn, nhân lực. Đồng thời, xây dựng chính sách hỗ trợ mô hình kinh doanh mới, khuyến khích sản phẩm công nghệ Việt Nam. Đẩy mạnh hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ứng dụng thương mại điện tử, công nghệ số.
Thứ ba, nâng cao hạ tầng thông tin và truyền thông kết hợp đào tạo phát triển nguồn nhân lực kỹ thuật số
Đầu tư vào cơ sở hạ tầng mạng và viễn thông để cải thiện cấp internet và tốc độ kết nối. Phát triển dịch vụ mạng, đặc biệt là ở các vùng nông thôn miền núi. Tăng cường nâng cấp mạng 4G và tăng tốc độ triển khai mạng 5G, đồng thời thúc đẩy ứng dụng giao thức internet tiên tiến IPv6 (Giao thức lớp mạng cho phép việc giao tiếp diễn ra trên mạng) theo kịp xu hướng thế giới. Xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng viễn thông theo hướng hiện đại, trở thành nền tảng. Ngoài ra, khuyến khích phát triển các ứng dụng và dịch vụ dựa trên công nghệ số. Bên cạnh đó, tăng cường đầu tư cho giáo dục đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng về công nghệ thông tin và truyền thông số. Xây dựng các chương trình đào tạo và khuyến khích học tập liên quan đến công nghệ thông tin và truyền thông, cập nhật các xu hướng công nghệ mới. Thúc đẩy hợp tác giữa các trường đại học và doanh nghiệp để cung cấp các chương trình đào tạo đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động.
Thứ tư, tăng cường an ninh mạng và bảo mật thông tin
Xây dựng cơ chế, chính sách và tăng cường tính pháp chế trong thực thi Luật An ninh mạng được Quốc hội ban hành số 24/2018/QH14 năm 2018 (có hiệu lực ngày 01/01/2019). Tăng cường hợp tác quốc tế trong chia sẻ thông tin và kỹ thuật phòng chống tấn công mạng, chia sẻ kinh nghiệm và kiến thức về phát triển kinh tế số trên cơ sở mối quan hệ đối tác với các quốc gia và tổ chức quốc tế. Vấn đề bảo mật thông tin cá nhân cần được pháp luật quy định rõ ràng với các chính sách, hành động cụ thể để bảo vệ quyền lợi của người tham gia, đảm bảo môi trường không gian mạng an toàn, bảo mật. Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia về định danh số và xác thực điện tử. Xây dựng, hoàn thiện pháp luật về chính sách tiền tệ, tài chính liên quan đến ứng dụng công nghệ số vào dịch vụ quốc tế, quản lý thuế điện tử, thanh toán điện tử, quản lý sản xuất, số hóa mô hình kinh doanh./.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Chính trị (2019), Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
2. Cao Tân (2024), Các vụ tấn công tại Việt Nam ngày càng gia tăng, truy cập từ https://nhandan.vn/cac-vu-tan-cong-mang-tai-viet-nam-ngay-cang-tang-post818504.html.
3. Cục Thương mai điện tử và kinh tế số (2022), Sách trắng Thương mại điện tử Việt Nam năm 2022, Nxb Bộ Công Thương, Hà Nội.
4. Cục Thương mai điện tử và kinh tế số (2023), Sách trắng Thương mại điện tử Việt Nam năm 2023, Nxb Bộ Công Thương, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, tr.112-120.
6. Tổng Cục Thống kê (2023), Niên giám Thống kê 2022, Nxb Thống kê.
7. Harbhajan S. Kehal, Varinder P. Singh (2005), Digital Economy: Impacts, Influences and Challenges, Ideal Group Pub.
8. Bộ Thông tin và Truyền thông (2023), Báo cáo Thường niên về thông tin truyền thông.
9. Statista (2022), Toàn cảnh thị trường smart home Việt Nam và Thế giới 2022, dự báo tới năm 2027.
TS. Phí Thị Hằng, PGS, TS. Đinh Thị Nga, TS. Hồ Sỹ Ngọc
Viện Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(Theo Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 02, tháng 01/2025)
*Đây là sản phẩm của Đề tài KX02.22/21-25 “Nghiên cứu, vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong phát triển khu vực kinh tế ngoài nhà nước thời kỳ Đổi mới”
[1] Tổng Bí thư Tô Lâm, “Cơ sở định vị mục tiêu đưa đất nước bước vào kỳ nguyên mới và những định hướng chiến lược”, bài giảng lớp cán bộ nguồn tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, https://hcma.vn/Pages/chi-tiet-tin.aspx?ItemID=18551&cm=4 (ngày 01/11/2024)
[2] Bộ Chính trị (2019), Nghị quyết 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Bình luận