Sản xuất công nghiệp năm 2024 về đích với mức tăng trưởng 8,4%
Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,6% so với năm trước, là mức tăng cao nhất trong giai đoạn 2020-2024
Theo số liệu được Tổng cục Thống kê công bố mới đây, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) quý IV/2024 tăng 7,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung năm 2024, chỉ số sản xuất ngành công nghiệp ước tăng 8,4% so với năm trước (năm 2023 tăng 1,3%).
Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 9,6% (năm 2023 tăng 1,5%), đóng góp 8,4 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 9,5%, đóng góp 0,8 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 10,7%, đóng góp 0,2 điểm phần trăm; ngành khai khoáng giảm 6,5%, làm giảm 1,0 điểm phần trăm trong mức tăng chung.
Nhìn chung, sản xuất công nghiệp các tháng trong năm 2024 vẫn duy trì tăng trưởng ổn định. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của cơn bão số 3 (Yagi) trong tháng 9/2024 đã ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp. Do vậy, sản xuất công nghiệp có xu hướng tăng chậm lại vào các tháng cuối năm, cụ thể: Quý I/2024 tăng 5,9%; quý II/2024 tăng 9,9%; quý III/2024 tăng 9,3% và ước quý IV/2024 tăng 7,9% so với cùng kỳ năm trước (Hình 1).
Hình 1: Tốc độ tăng/giảm IIP các tháng năm 2024
Đơn vị: %
Nguồn: Tổng cục Thống kê |
Xét theo ngành công nghiệp cấp I, chỉ số sản xuất ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (ngành chiếm trên 74% giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp) tăng 9,6% so với năm trước, đóng góp 8,35 điểm phần trăm vào mức tăng chung của toàn ngành; ngành khai khoáng giảm 6,5%, làm giảm 1,02 điểm phần trăm; ngành sản xuất, phân phối điện tăng 9,5%, đóng góp 0,84 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và xử lý nước thải, rác thải tăng 10,7%, đóng góp 0,17 điểm phần trăm.
Trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, chỉ số tiêu thụ năm 2024 tăng 11,3% so với năm trước, chỉ số tồn kho tại thời điểm 31/12/2024 ước tăng 10,6% so cùng thời điểm năm trước, tỷ lệ tồn kho bình quân năm 2024 là 77,1%.
Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/12/2024 tăng 0,8% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 3,2% so với cùng thời điểm năm trước.
Theo Tổng cục Thống kê, một số điểm sáng trong bức tranh sản xuất công nghiệp năm 2024 có thể kể tới là:
Thứ nhất, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp năm 2024 tăng 8,4%, trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,6% so với năm trước, là mức tăng cao nhất trong giai đoạn 2020-2024 kể từ khi dịch Covid-19 bùng phát.
Thứ hai, chỉ số sản xuất của 30/33 ngành công nghiệp cấp 2 tăng so với năm trước, trong đó, nhiều ngành có chỉ số sản xuất tăng cao trên 10%, gồm: Sản xuất sản phẩm từ cao su, plastic tăng 24,9%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 23,8%; sản xuất xe có động cơ tăng 21,1%; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải tăng 18,8%; khai thác quặng kim loại tăng 14,4%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 13,7%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 12,6%; dệt tăng 12,1%; sản xuất hóa chất, sản phẩm hóa chất và sản xuất thiết bị điện cùng tăng 11,9%; sản xuất trang phục tăng 11,7%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 10,8%; in, sao chép bản ghi tăng 10,5% (Hình 2).
Hình 2: Tốc độ tăng/giảm IIP các ngành công nghiệp cấp 2 năm 2024 so năm trước (%)
Nguồn: Tổng cục Thống kê |
Bên cạnh đó, sản lượng sản xuất của một số sản phẩm công nghiệp tăng cao trên 10% so với năm trước, gồm: Ô tô tăng 27%; thép thanh, thép góc tăng 18,7%; tivi các loại tăng 18,6%; đường kính và vải dệt từ sợi tự nhiên cùng tăng 16,7%; xăng, dầu các loại tăng 14%; thép cán tăng 13,8%; phân hỗn hợp NPK tăng 11%; sữa bột tăng 10,9%; thủy hải sản chế biến tăng 10,4%...
Thứ ba, sản lượng tiêu thụ một số ngành tăng cao, tạo điều kiện kích thích sản xuất phát triển. Cụ thể, chỉ số tiêu thụ sản phẩm năm 2024 các ngành tăng cao gồm: sản xuất thiết bị điện tăng 39,8%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 24,8%; sản xuất xe có động cơ tăng 21,3%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 20,5%; sản xuất máy móc thiết bị chưa được phân vào đâu và in, sao chép bản ghi các loại cùng tăng 18,7%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 15,1%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 14,6%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 13,1%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính tăng 12,2%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 12,1%.
Thứ tư, có 60/63 tỉnh, thành phố trong cả nước có chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2024 tăng so với năm 2023. Một số tỉnh, thành phố tăng cao do điện sản xuất tăng cao gồm: Trà Vinh, Khánh Hòa, Thái Bình, Lai Châu, Sơn La, Điện Biên, Cao Bằng, Hòa Bình, Hà Giang. Một số tỉnh, thành phố tăng cao do sản xuất chế biến, chế tạo tăng cao gồm: Phú Thọ, Bắc Giang, Thanh Hóa, Bình Phước, Quảng Nam, Hà Nam, Hải Phòng, Nam Định, Hải Dương, Tây Ninh, Vĩnh Long, Kiên Giang.
Thứ năm, sản lượng tiêu thụ tăng cao hơn sản lượng sản xuất dẫn đến sản lượng tồn kho có xu hướng giảm. Cụ thể, trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, chỉ số sản xuất năm 2024 tăng 9,6% trong khi chỉ số tiêu thụ tăng 11,3% (mức tăng chỉ số tiêu thụ cao hơn 1,7 điểm phần trăm so với chỉ số sản xuất), chỉ số tồn kho thời điểm 31/12/2024 ước tăng 10,6% so với cùng thời điểm năm trước, thấp hơn nhiều so với chỉ số tồn kho cùng thời điểm năm 2023 (tăng 19,8%). Tỷ lệ tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân năm 2024 là 77,1%, thấp hơn nhiều so với tỷ lệ này năm 2023 là 88%.
Khó khăn đặt ra
Tuy nhiên, sản xuất công nghiệp năm 2024 cũng đang đối diện trước một số khó khăn, như:
Một là, sản xuất công nghiệp năm 2024 tăng trưởng cao trên nền năm 2023 tăng trưởng thấp (năm 2023 tăng 1,3% so với cùng kỳ), tốc độ tăng trưởng những tháng cuối năm 2024 (quý IV/2024) không được như kỳ vọng với xu hướng tăng trưởng chậm lại do các tháng cuối năm 2023 hoạt động sản xuất công nghiệp đã tăng trưởng trở lại.
Hai là, chỉ số sản xuất của 3/33 ngành công nghiệp cấp 2 giảm so với năm trước, gồm: Khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 10,9%; khai thác than giảm 5,5%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc thiết bị giảm 5,1%.
Một số ngành có chỉ số tiêu thụ năm 2024 giảm hoặc tăng thấp so với cùng kỳ năm 2023, như: Sản xuất đồ uống giảm 0,2%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại tăng 1,1%; công nghiệp chế biến, chế tạo khác tăng 1,7%.
Ba là, vẫn còn 3/63 tỉnh có chỉ số sản xuất công nghiệp giảm do các ngành sản xuất chủ lực tại các địa phương này sụt giảm, cụ thể: Gia Lai giảm 3,2% chủ yếu do điện sản xuất giảm; Quảng Ngãi giảm 1,8% chủ yếu do sản xuất xăng, dầu giảm; Hà Tĩnh giảm 1% chủ yếu do sản xuất kim loại giảm. Bên cạnh đó, một số địa phương là trung tâm công nghiệp lớn của cả nước sản xuất công nghiệp tăng chậm, cụ thể: Hà Nội tăng 5,9%; Bắc Ninh tăng 5,8%; Bà Rịa-Vũng Tàu tăng 2,5%.
Để thúc đẩy sản xuất công nghiệp bứt phá trong năm 2025
Năm 2025, hoạt động sản xuất công nghiệp có thể phải đối mặt với một số khó khăn, như: Tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường và còn nhiều rủi ro tiềm ẩn. Các rủi ro này có thể có những tác động không tốt tới các nền kinh tế có độ mở lớn như kinh tế Việt Nam.
Bên cạnh đó, yêu cầu về sản xuất xanh, sạch và hướng tới phát triển bền vững đòi hỏi các doanh nghiệp phải chủ động đầu tư cho sản xuất, nâng cao tay nghề người lao động để đáp ứng các yêu cầu mới của các đơn hàng quốc tế.
Bên cạnh những khó khăn trên, hoạt động sản xuất công nghiệp cũng có một số thuận lợi, đó là sự đồng hành của Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương đối với doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng của quốc tế trong thời gian gần đây tạo đang cơ hội rất lớn cho Việt Nam. Nếu Việt Nam tận dụng tốt lợi thế này, đồng thời đẩy mạnh chuyển đổi số, chuyển đổi xanh nhanh hơn nữa, đáp ứng sự dịch chuyển chuỗi cung ứng cũng như đảm bảo các yêu cầu ngày càng khắt khe của thị trường quốc tế thì có thể tạo đột phá trong tăng trưởng công nghiệp năm 2025 và các năm tiếp theo.
Năm 2025, cùng với nhiều kỳ vọng, chỉ số sản xuất công nghiệp của ngành Công Thương phấn đấu tăng khoảng 9%-10%. Theo Bộ Công Thương, để đảm bảo thực hiện các mục tiêu phấn đấu chỉ số sản xuất công nghiệp trong năm 2025, cần tập trung các giải pháp:
Thứ nhất, tiếp tục chủ động triển khai hiệu quả các chính sách kinh tế vĩ mô nói chung và phát triển công nghiệp nói riêng của Chính phủ và Bộ Công Thương, thúc đẩy đưa vào vận hành các dự án sản xuất công nghiệp mới nhằm phục vụ cho xuất khẩu và tiêu dùng trong nước, tạo thêm năng lực cho phát triển sản xuất và nguồn hàng cho xuất khẩu.
Thứ hai, tập trung công tác tham mưu hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật làm cơ sở cho các nguồn lực tăng trưởng mới trong các ngành công nghiệp trong ngắn hạn cũng như trong dài hạn.
Cụ thể, nghiên cứu, đề xuất xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chung về phát triển các ngành công nghiệp nền tảng, ưu tiên để chế hóa các chủ trương mới của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo cơ sở pháp lý thống nhất để thúc đẩy phát triển công nghiệp nhanh và bền vững.
Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan trong việc nghiên cứu, trình Chính phủ ban hành các Nghị định, văn bản hướng dẫn Luật Điện lực (sửa đổi) và Nghị quyết của Quốc hội về chủ trương đầu tư đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam; đồng thời khẩn trương tham mưu để Bộ trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp quan trọng như cơ khí, ô tô, thép… nhằm tận dụng cơ hội thị trường rất lớn từ các ngành năng lượng và giao thông trong thời gian tới.
Khẩn trương đề xuất ban hành Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ trong giai đoạn mới (2025 – 2035) để tiếp tục triển khai có hiệu quả các giải pháp nâng cao năng lực doanh nghiệp công nghiệp nội địa đáp ứng các yêu cầu tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, đón đầu các cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài mới .
Thứ ba, tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chương trình làm việc với các địa phương và các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp hiện có nhằm phát huy đà tăng trưởng của các ngành công nghiệp tại các vùng kinh tế trọng điểm, tạo động lực tiếp tục thúc đẩy đà tăng trưởng công nghiệp trên phạm vi toàn quốc./.
Bình luận