Phát biểu khai mạc, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nêu rõ, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước (DNNN) được Đảng, Nhà nước ta rất quan tâm và được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của các cấp, các ngành trong thực hiện phát triển kinh tế - xã hội. Chúng ta xác định DNNN giữ vị trí then chốt và là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế Nhà nước, góp phần quan trọng ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội. Cộng đồng doanh nghiệp nói chung và DNNN nói riêng đã nỗ lực không ngừng, vượt qua bao khó khăn, thách thức, tiếp tục nỗ lực vươn lên, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Thủ tướng chủ trì Hội nghị Thường trực Chính phủ làm việc với doanh nghiệp Nhà nước
Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị của Thường trực Chính phủ làm việc với DNNN về các giải pháp thúc đẩy sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Báo cáo tại Hội nghị về tình hình hoạt động của DNNN, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Duy Đông cho biết, tính đến hết năm 2022, Việt Nam còn khoảng 478 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và khoảng 198 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối. Các DNNN đang nắm giữ nguồn lực lớn về vốn, tài sản, công nghệ, nhân lực chất lượng cao, đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước (NSNN)…

Về quy mô tài sản và vốn chủ sở hữu, tính đến hết năm 2022, tổng tài sản của DNNN trên toàn quốc đạt hơn 3,82 triệu tỷ đồng, tăng 4% so với năm 2021. Tổng vốn chủ sở hữu của DNNN đạt hơn 1,8 triệu tỷ đồng, tăng 3% so với năm 2021. Tổng giá trị vốn Nhà nước đang đầu tư tại các DNNN đạt gần 1,7 triệu tỷ đồng, tăng 3% so với năm 2021. Tính đến cuối năm 2022, tổng số tiền nộp NSNN của khu vực DNNN là gần 383 nghìn tỷ đồng, tăng 21% so với năm 2021. Trong đó, khối các tập đoàn, tổng công ty, công ty mẹ - con đạt 332,8 nghìn tỷ đồng, tăng 18% so với năm 2021, chiếm 87% tổng số tiền nộp NSNN.

Báo cáo về tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh của DNNN, Thứ trưởng Trần Duy Đông cho biết, tổng doanh thu của các DNNN năm 2022 đạt trên 2,64 triệu tỷ đồng, tăng 29% so với năm 2021. Tổng lãi phát sinh trước thuế tính đến cuối năm 2022 đạt trên 241 triệu tỷ đồng, tăng 24% so với năm 2021. Tỷ suất lãi phát sinh trước thuế/vốn chủ sở hữu bình quân là 13%; tỷ suất lãi phát sinh trước thuế/tổng tài sản bình quân là 6%. Đáng chú ý, có 64/676 doanh nghiệp (chiếm 9% tổng số DNNN) có lỗ phát sinh với tổng số lỗ phát sinh khoảng 29,45 nghìn tỷ đồng; 144/676 doanh nghiệp (chiếm 21% tổng số DNNN) còn lỗ lũy kế với tổng số lỗ lũy kế là 69,9 nghìn tỷ đồng.

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Duy Đông cho biết, khu vực DNNN đóng vai trò chi phối, chủ đạo trong trong những ngành, lĩnh vực quan trọng, thiết yếu của nền kinh tế như: cung cấp khoảng 87% sản lượng điện cho xã hội; đóng góp khoảng hơn 84% thị phần bán lẻ trong lĩnh vực xăng dầu, cung cấp 100% thị phần khí khô và 70% thị phần LNG toàn quốc, đáp ứng khoảng 70-75% nhu cầu phân đạm cho sản xuất nông nghiệp, chiếm hơn 90% thị phần về thuê bao di động và băng rộng di động mặt đất…

Về thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh 6 tháng đầu năm 2023, theo báo cáo tổng hợp của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến ngày 30/6/2023, tổng doanh thu của các DNNN trên cả nước đạt gần 690 nghìn tỷ đồng, đạt 50% kế hoạch năm 2023. Lãi phát sinh trước thuế là 67,4 nghìn tỷ đồng, đạt 63% so với kế hoạch năm 2023. Tổng lỗ phát sinh của cả khu vực DNNN là 33.639 tỷ đồng, chủ yếu tập trung ở khối các doanh nghiệp Trung ương như: Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) lỗ phát sinh 32.055 tỷ đồng, Tổng công ty Hàng không Việt Nam - CTCP (VNA) lỗ phát sinh 1.317 tỷ đồng. Tổng thuế và các khoản phát sinh nộp NSNN là 67.233 tỷ đồng, đạt 56% so với kế hoạch năm 2023.

Ước cả năm 2023, tổng doanh thu của toàn khu vực DNNN đạt hơn 1,4 triệu tỷ đồng, tăng 4% so với kế hoạch đề ra. Tổng lãi phát sinh trước thuế của khu vực DNNN năm 2023 ước đạt hơn 117,3 triệu tỷ đồng, tăng 9% so với kế hoạch đề ra. Tổng thuế và các khoản phát sinh nộp NSNN của DNNN cả năm 2023 ước đạt gần 129 nghìn tỷ đồng, tăng 7% so với kế hoạch. Ước tính năm 2023, các doanh nghiệp phát sinh lỗ khoảng 41.666 tỷ đồng.

Như vậy, có thể thấy trong bối cảnh tình hình sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp còn khó khăn chung do tác động của xung đột Nga - Ukraina và các bất ổn của kinh tế thế giới. Các DNNN cơ bản đã nỗ lực tổ chức sản xuất, kinh doanh đạt kế hoạch đề ra, đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, một số doanh nghiệp còn gặp khó khăn, thua lỗ, hiệu quả hoạt động chưa tương xứng với nguồn lực nắm giữ.

Báo cáo về tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh của 19 tập đoàn, tổng công ty trực thuộc Ủy Ban quản lý vốn nhà nước (UBQLVNN), đại diện lãnh đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, tính đến ngày 01/01/2023, tổng vốn chủ sở hữu hợp nhất của 19 tập đoàn, tổng công ty là 1,173 triệu tỷ đồng. Trong 8 tháng đầu năm 2023, các tập đoàn, tổng công ty tập trung đẩy mạnh hoạt động sản xuất, kinh doanh và thực hiện các nhiệm vụ được giao; tiếp tục giữ vị trí, vai trò nòng cốt trong nhiều ngành, lĩnh vực kinh tế quan trọng; bảo đảm cân đối lớn và cung ứng các sản phẩm, dịch vụ quan trọng cho nền kinh tế. Kết quả đạt được về doanh thu, lợi nhuận, nộp NSNN cơ bản đạt mục tiêu kế hoạch đề ra.

Theo đó, ước thực hiện lũy kế đến tháng 8/2023, tổng doanh thu của 19 tập đoàn, tổng công ty ước đạt gần 782 nghìn tỷ đồng (bằng 114% kế hoạch năm và tăng 5% so với cùng kỳ). Một số doanh nghiệp có tổng doanh thu lớn như: Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN), EVN, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV), Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex).

Tổng lợi nhuận trước thuế của các DNNN (chưa bao gồm số liệu của EVN) ước đạt 31.236 tỷ đồng (bằng 96% kế hoạch năm và bằng 95% so với cùng kỳ). Các doanh nghiệp có lợi nhuận trước thuế đạt trên 3.000 tỷ đồng gồm: PVN, Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC), VNA, Tập đoàn Hóa chất Việt Nam. Tổng nộp NSNN ước đạt gần 51 nghìn tỷ đồng (bằng 126% kế hoạch năm và bằng 111% so với cùng kỳ). Những doanh nghiệp đóng góp vào NSNN lớn như: Petrolimex, Tổng công ty Lương thực miền Nam, PVN, TKV, SCIC. Trong bối cảnh nền kinh tế gặp nhiều khó khăn do tác động của bên ngoài, các tập đoàn, tổng công ty đã tích cực, chủ động, bảo đảm nguồn cung, bình ổn thị trường, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, ổn định chuỗi cung ứng xăng dầu; đảm bảo an ninh năng lượng; gia tăng giá trị sản xuất, cung ứng sản phẩm hàng hóa công nghiệp cho nền kinh tế.

Tại các địa phương, các DNNN chủ yếu tập trung hoạt động trong các lĩnh vực: nông, lâm nghiệp và công trình thủy lợi; hoạt động xổ số; hoạt động công ích (đô thị, chiếu sáng, cấp thoát nước…). Trong 6 tháng đầu năm 2023, các doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ do UBND thành phố Hà Nội làm đại diện chủ sở hữu có tổng doanh thu thực hiện đạt hơn 5.431 tỷ đồng; tổng lợi nhuận sau thuế đạt gần 388 tỷ đồng, lỗ khoảng 135 tỷ đồng, lỗ lũy kế gần 295 tỷ đồng. Tổng số phát sinh phải nộp NSNN là 554,2 tỷ đồng. Các doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ có tổng doanh thu đạt hơn 1.500 tỷ đồng, tổng lợi nhuận sau thuế đạt hơn 72,4 tỷ đồng, lỗ khoảng 10,43 tỷ đồng, lỗ lũy kế khoảng 73,6 tỷ đồng, tổng số đã nộp NSNN khoảng 44,16 tỷ đồng.

Nhận định về kết quả hoạt động của các DNNN thời gian qua, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đánh giá về cơ bản, các DNNN hoàn thành nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh; tổng doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, giá trị vốn đầu tư phát triển thực hiện và thu nhập bình quân của người lao động đều tăng. Một số tập đoàn, tổng công ty đạt kim ngạch xuất nhập khẩu lớn; chưa phát sinh dự án đầu tư có nguy cơ rủi ro cao gây thua lỗ lớn, thất thoát vốn nhà nước; thể hiện rõ vai trò trong việc góp phần bảo đảm một số cân đối lớn của nền kinh tế. Khu vực DNNN tiếp tục bảo toàn và phát triển vốn, tài sản, áp dụng công nghệ, mô hình quản trị hiện đại, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp lớn, tập đoàn, tổng công ty đã đi đầu trong các công nghệ mới, công nghệ 4.0...

Thủ tướng chủ trì Hội nghị Thường trực Chính phủ làm việc với doanh nghiệp Nhà nước
Các đại biểu dự hội nghị. Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Tuy nhiên, bên cạnh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNNN cơ bản ổn định, vẫn còn một số tồn tại hạn chế của khu vực này. Cụ thể, vẫn còn một số doanh nghiệp hoạt động thua lỗ. Một số tập đoàn, tổng công ty chưa đạt được một số chỉ tiêu kế hoạch sản xuất, kinh doanh. Do khó khăn khách quan, một số tập đoàn, tổng công ty có mức lợi nhuận âm, trong đó có những doanh nghiệp có quy mô lớn, có vai trò quan trọng (EVN, VNA...). Một số dự án đầu tư còn chậm tiến độ triển khai; công tác thanh quyết toán các dự án xây dựng cơ bản kéo dài làm giảm hiệu quả sử dụng nguồn lực. Việc thực hiện các dự án đầu tư mới của DNNN chưa được thúc đẩy. Tiến độ phê duyệt Đề án tái cơ cấu; chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh giai đoạn 2021-2025 còn rất chậm, chưa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược và kế hoạch sản xuất, kinh doanh. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ và kết quả hoàn thành kế hoạch sản xuất, kinh doanh và đầu tư phát triển của cả giai đoạn.

Bên cạnh đó, các tập đoàn, tổng công ty chưa chú trọng đầu tư vào các ngành, lĩnh vực có tính dẫn dắt, tạo động lực. Mặc dù nắm giữ trên 60% nguồn lực của nền kinh tế, các tập đoàn, tổng công ty hầu như chưa có các dự án đầu tư phát triển quy mô đủ lớn để tạo động lực bứt phá, sức lan tỏa, hỗ trợ tái cơ cấu và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Năng lực cạnh tranh, ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo của các DNNN còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước. Các doanh nghiệp công nghệ thông tin chưa đẩy mạnh tham gia đa dạng dịch vụ công nghệ số (4G, 5G). SCIC bước đầu thực hiện vai trò nhà đầu tư của Chính phủ với tổng vốn đầu tư đã giải ngân khoảng hơn 36.800 tỷ đồng (bao gồm khoản đầu tư vào VNA: 6.850 tỷ đồng), nhưng chưa thực sự tham gia vào các dự án đầu tư mới đóng vai trò làm nền tảng, dẫn dắt nền kinh tế.

Hiệu quả hoạt động của DNNN chưa tương xứng với nguồn lực nắm giữ, chưa đạt hiệu quả như kỳ vọng; một số dự án có lỗ lũy kế lớn. Công tác đổi mới quản trị doanh nghiệp trong điều hành sản xuất, kinh doanh còn chậm, chưa thực sự hướng theo các nguyên tắc và thông lệ quốc tế tốt, chi phí sản xuất kinh doanh còn lớn. Việc xử lý các dự án thua lỗ, kém hiệu quả chưa được giải quyết triệt để làm ảnh hưởng đến việc cơ cấu lại DNNN. Việc nghiên cứu, ban hành, sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật còn chậm, còn tồn tại sự chưa thống nhất trong các văn bản pháp luật, gây khó khăn cho quá trình áp dụng của các DNNN.

Nhận định về nguyên nhân của các hạn chế, tồn tại nói trên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng, về khách quan, do tình tình hình căng thẳng trong các quan hệ kinh tế, chính trị trên thế giới và khu vực, ảnh hưởng đến thị trường tài chính, chứng khoán trong nước và khu vực. Giá nguyên, nhiên vật liệu, vật tư đầu vào, nhất là sắt, thép, xăng dầu, chi phí logistics tăng cao, làm tăng chi phí sản xuất, kinh doanh. Thị trường xuất nhập khẩu của một số doanh nghiệp chịu nhiều tác động của thị trường quốc tế.

Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn có các nguyên nhân chủ quan như: Hệ thống pháp luật về DNNN, trong đó có tập đoàn, tổng công ty vẫn còn nhiều bất cập; các quy định pháp luật liên quan về quản trị doanh nghiệp, quản lý vốn và tài sản, đất đai, đầu tư… chưa đồng bộ, chưa phù hợp với đầu tư, kinh doanh và quản trị điều hành DNNN trong kinh tế thị trường; quy trình thủ tục báo cáo, phê duyệt nhiều tầng nấc, chưa được phân cấp triệt để. Sự chậm trễ trong việc ra quyết định làm mất đi cơ hội, giảm hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của DNNN. Các doanh nghiệp còn thiếu tầm nhìn chiến lược để tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu và vươn ra quốc tế. Các tập đoàn, tổng công ty chưa thật sự quyết tâm đầu tư vào các dự án trong lĩnh vực mới, có tác động lớn và lan tỏa tới phát triển kinh tế-xã hội. Năng lực triển khai dự án còn yếu, kinh nghiệm quản lý đầu tư xây dựng dự án, tổ chức sản xuất, khai thác, vận hành dự án còn hạn chế, thiếu đội ngũ cán bộ chuyên môn, kỹ thuật có trình độ đáp ứng yêu cầu…

Để khắc phục các hạn chế tồn tại này, phát huy tiềm lực và vai trò tương xứng của khu vực DNNN nói chung, cũng như của các “quả đấm thép”, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đề xuất một số giải pháp trọng tâm thúc đẩy hoạt động sản xuất, kinh doanh và đầu tư phát triển của DNNN.

Theo đó, đề nghị các cơ quan đại diện chủ sở hữu ở Trung ương và địa phương, UBQLVNN chỉ đạo các DNNN, tập đoàn kinh tế, tổng công ty khẩn trương hoàn thiện, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển 5 năm và hàng năm, trong đó tập trung vào các dự án đầu tư quy mô lớn, có tác động lan tỏa tới sự phát triển kinh tế - xã hội, góp phần thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của ngành, địa phương.

Các DNNN, tập đoàn kinh tế, tổng công ty chủ động nghiên cứu xu hướng phát triển các ngành, lĩnh vực mới trên thế giới, bám sát tình hình, phấn đấu hoàn thành cao nhất nhiệm vụ, kế hoạch sản xuất, kinh doanh và đầu tư phát triển năm 2023 đã đề ra, phấn đấu vượt mức kế hoạch được giao. Tập trung cao độ để bảo đảm cung cấp các sản phẩm, dịch vụ thiết yếu, các cân đối lớn cho nền kinh tế; đặc biệt là các tập đoàn, tổng công ty: EVN, PVN, TKV, VNPT, MobiFone, Petrolimex, VNA... cần bảo đảm cung cấp đầy đủ các sản phẩm, dịch vụ: điện, than, dầu khí, xăng dầu, vận tải hàng không, hàng hải, đường sắt, viễn thông và công nghệ thông tin. Tập trung cao độ nguồn lực để bảo đảm tiến độ thực hiện đối với những dự án lớn, quan trọng.

Cũng theo kiến nghị của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các cơ quan cần khẩn trương nghiên cứu, sửa đổi, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, trong đó quan trọng nhất là hoàn thiện, trình Quốc hội Luật sửa đổi bổ sung Luật số 69/2014/QH13 và các văn bản hướng dẫn nhằm tháo gỡ triệt để và trong thời gian sớm nhất các vướng mắc về cơ chế pháp lý đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh, đầu tư phát triển của DNNN, có cơ sở thúc đẩy đầu tư của DNNN trong kỳ trung hạn tới. Tiếp tục đẩy mạnh việc huy động nguồn lực, tháo gỡ cơ chế để các DNNN, các tập đoàn, tổng công ty tham gia vào phát triển kinh tế-xã hội trên cơ sở các giải pháp trọng điểm đã được nêu tại Nghị quyết số 68/NQ-CP của Chính phủ và Chỉ thị số 12/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Khẩn trương hoàn thiện trình cấp có thẩm quyền phê duyệt Đề án “Phát triển DNNN quy mô lớn nhằm phát huy vai trò mở đường, dẫn dắt cho doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác”, trong đó đề xuất các chính sách, cơ chế vượt trội, đặc thù để phát huy vai trò của DNNN trong phát triển kinh tế-xã hội.

Các bộ, ngành, địa phương, cơ quan đại diện chủ sở hữu, UBQLVNN khẩn trương chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện và phê duyệt Kế hoạch sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển 5 năm, Đề án tái cơ cấu lại doanh nghiệp đến năm 2025 của các DNNN được giao quản lý. Khẩn trương hoàn thiện trình Chính phủ Chiến lược phát triển ngành công nghiệp bán dẫn và Chiến lược quốc gia về phát triển ngành hydrogen. Trên cơ sở đó nghiên cứu cơ chế, chính sách đặc thù, hỗ trợ tài chính (bổ sung đầu tư từ NSNN, nguồn vốn từ hệ thống ngân hàng thương mại) để giao nhiệm vụ cho các tập đoàn, tổng công ty (Viettel, VNPT, FPT, PVN…) đầu tư trở thành doanh nghiệp dẫn dắt trong các ngành công nghiệp mới: công nghiệp bán dẫn và hydrogen.

Đẩy mạnh hơn nữa vai trò của SCIC với định hướng là nhà đầu tư của Chính phủ để cùng với các tập đoàn, tổng công ty, hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước nghiên cứu các cơ hội đầu tư vào một số ngành, lĩnh vực quan trọng phục vụ phát triển nền kinh tế đất nước theo hướng bền vững, tuần hoàn mà tư nhân không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện hiệu quả như: năng lượng tái tạo/năng lượng sạch (điện gió ngoài khơi, hyrogen, LNG); thiết kế và sản xuất chíp, bán dẫn. Các cơ quan đại diện chủ sở hữu tiếp tục chỉ đạo các DNNN áp dụng triệt để nguyên tắc quản trị của OECD, ứng dụng các giải pháp công nghệ 4.0, chủ động chuyển đổi sang kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới./.