Lời giới thiệu: Đại dịch COVID-19 là cú sốc lớn, tác động nhiều mặt đối với đời sống kinh tế - xã hội mọi quốc gia trên thế giới. Sau những thành công trong ứng phó với bốn đợt bùng phát dịch bệnh, Việt Nam đã chuyển sang thực hiện thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh. Sự chuyển hướng đó đòi hỏi phải làm tốt cả việc phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội và sẵn sàng ứng phó có hiệu quả với dịch bệnh tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường. Để đạt được mục tiêu, nhiệm vụ thích ứng an toàn, linh hoạt, hiệu quả, cần khơi thông, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, động lực có thể bị cản trở bởi các nút thắt thể chế, có thể bị ngưng trệ do chính hậu quả dịch COVID-19.

Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư đánh dấu sự phát triển vượt bậc trong việc sử dụng dữ liệu và công nghệ vào toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Xu hướng số hóa nền kinh tế và các hoạt động xã hội đang diễn ra rất nhanh ở nhiều quốc gia, đặc biệt tại một số nước đi đầu và các nước đang phát triển. Kinh tế số đã trở thành một bộ phận đóng góp ngày càng quan trọng trong tổng sản phẩm của các quốc gia, đặc biệt trong quá trình phục hồi hậu COVID-19.

Chương trình “Từ chính sách ra cuộc sống” bao gồm nhiều hoạt động sự kiện, đối thoại, nghiên cứu khảo sát chiến lược chính sách, kiến nghị chính sách và chuỗi chương trình đối thoại độc quyền với các chính trị gia, chuyên gia, doanh nhân nổi bật. Trong khuôn khổ nội dung này, Chuyên gia Nguyễn Thy Nga, Chủ nhiệm Chương trình trao đổi với GS. Trần Thọ Đạt, Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo Trường đại học Kinh tế Quốc dân, Thành viên Tổ tư vấn Kinh tế của Thủ tướng Chính phủ về: Kinh tế số - Nguồn lực và động lực cho phát triển Kinh tế xã hội của Việt Nam.

Từ Chính sách ra Cuộc sống: Kinh tế số mở cơ hội hiếm có cho Việt Nam
Chuyên gia Nguyễn Thy Nga và GS Trần Thọ Đạt đối thoại chính sách Kinh tế số: Nguồn lực và động lực cho phát triển Kinh tế xã hội của Việt Nam

Nền tảng phát triển kinh tế số quốc gia

Từ Chính sách ra Cuộc sống: Kinh tế số mở cơ hội hiếm có cho Việt Nam
Chuyên gia ĐMST và Truyền thông Chính sách Nguyễn Thy Nga

Chuyên gia Nguyễn Thy Nga: Kinh tế số là 1 trong 3 trụ cột chính của Chuyển đổi số Quốc gia, cùng Chính phủ số và Xã hội số. Tháng 9/2019, Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về “Một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư” đã xác định, phát triển kinh tế số là trụ cột, là nhiệm vụ trọng tâm chiến lược trong tiến trình phát triển chuyển đổi số quốc gia những năm tiếp theo và đề ra mục tiêu vào năm 2025, kinh tế số Việt Nam chiếm 20% GDP, đến năm 2030 chiếm 30% GDP. Ngày 3/6/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, xác định tầm nhìn đến năm 2030, Việt Nam trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng, tiên phong thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới; đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phương thức sống, làm việc của người dân, phát triển môi trường số an toàn, nhân văn, rộng khắp.

Ngày 24/09/2021, Ủy ban quốc gia về Chính phủ điện tử được kiện toàn, đổi tên thành Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số. Ủy ban có 16 thành viên, Chủ tịch Ủy ban là Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính. Ngày 15/3, Thủ tướng, Chủ tịch Ủy ban quốc gia về chuyển đổi số đã ký ban hành kế hoạch hoạt động của Ủy ban năm 2022.

GS. Trần Thọ Đạt: “Hãy biến kinh tế số thành tương lai Việt Nam”

Chuyên gia Thy Nga: Kế hoạch hướng tới mục tiêu Ủy ban quốc gia về chuyển đổi số tập trung chỉ đạo, điều phối các bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh chuyển đổi số, phát triển Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số, ưu tiên nguồn lực để đạt được các chỉ tiêu quan trọng thuộc các chương trình, chiến lược của Quốc gia về chuyển đổi số, phát triển Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Ông đánh giá thế nào về vai trò động lực và tác động tạo nên phương thức tăng trưởng mới của kinh tế số, đặc biệt là đối với Việt Nam?

Từ Chính sách ra Cuộc sống: Kinh tế số mở cơ hội hiếm có cho Việt Nam
GS. Trần Thọ Đạt, Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo Trường đại học Kinh tế Quốc dân, Thành viên Tổ tư vấn Kinh tế của Thủ tướng Chính phủ

GS Trần Thọ Đạt: Về lịch sử, các cuộc cách mạng công nghiệp nào cũng mở ra một giai đoạn phát triển mới của xã hội loại người. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang tác động ngày càng mạnh mẽ đến tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội thông qua sự phát triển mạnh mẽ mang tính gắn kết giữa các công nghệ số hóa và dữ liệu, từ đó xuất hiện ngày càng nhiều và đa dạng các hình thức kinh doanh mới, tạo nên sự thay đổi to lớn, nhanh chóng và sâu sắc mọi mặt của đời sống xã hội. Xu hướng số hóa nền kinh tế và các hoạt động xã hội đang diễn ra rất nhanh ở nhiều quốc gia, đặc biệt tại một số nước đi đầu và các nước đang phát triển.

Vai trò động lực và tác động của kinh tế số trong việc hình thành nên một phương thức tăng trưởng mới thể hiện ở sự xuất hiện nhiều ngành công nghiệp mới và xóa mờ đường biên giới địa lý, các mô hình kinh doanh mới với cốt lõi là tổ chức và phương thức hoạt động dựa trên ứng dụng công nghệ số. Hơn nữa, công nghệ kỹ thuật số phát triển đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng năng suất và hiệu quả, kết quả là kinh tế số ngày càng có vai trò quan trọng trong tổng sản phẩm quốc gia của các nước. Ngân hàng Thế giới đã nhận định kinh tế số sẽ là tương lai phát triển của nhiều nước. Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang phát triển mạnh mẽ, đặc biệt trong quá trình phục hồi hậu COVID-19 đang diễn ra ở quy mô toàn cầu, nước nào tận dụng thành công cơ hội phát triển kinh tế số sẽ tạo lợi thế cạnh tranh để bứt phá, vươn lên mạnh mẽ.

Từ Chính sách ra Cuộc sống: Kinh tế số mở cơ hội hiếm có cho Việt Nam

Châu Á được đánh giá là một khu vực rất năng động và đã có tốc độ phát triển kinh tế số ở mức nhảy vọt trong thập niên vừa qua, sẽ là trung tâm phát triển công nghệ số và kinh tế số toàn cầu. Một minh chứng là, mặc dù là nước đi sau về phát triển công nghiệp, nhưng tỷ trọng kinh tế số trong GDP của Trung Quốc đã vượt Mỹ. Nằm ở trung tâm của Đông Nam Á, Việt Nam được coi là một nước có tiềm năng tăng trưởng kinh tế số mạnh mẽ và dự báo sẽ trở thành một quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế số ở mức khá trong khu vực ASEAN. Có thể nói, đây là lần đầu tiên hiếm có trong lịch sử, Việt Nam có cơ hội và thực tế đang đi cùng thế giới trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cách mạng chuyển đổi số và phát triển kinh tế số. Kinh tế số đang tạo ra những cơ hội để Việt Nam có thể tận dụng trong bứt tốc phát triển kinh tế đất nước, là động lực quan trọng để đưa nước ta sớm trở thành quốc gia có công nghệ hiện đại và sáng tạo, từ đó rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước khác. Nhiều chuyên gia kinh tế đã nhận định rằng, phát triển kinh tế số và đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia là phương thức để vượt qua bẫy thu nhập trung bình, là cách thức để Việt Nam vẽ lên một tương lai phát triển, không chỉ đơn giản là tiếp nối xu hướng của quá khứ mà là đưa nền kinh tế bước vào một quỹ đạo tăng trưởng mới mang tính bứt phá.

Tăng trưởng kinh tế số cần gấp 3 lần tăng trưởng GDP hàng năm

Chuyên gia Nguyễn Thy Nga: Ông đánh giá thế nào về mục tiêu Kinh tế số và tiềm năng kinh tế số của Việt Nam?

Từ Chính sách ra Cuộc sống: Kinh tế số mở cơ hội hiếm có cho Việt Nam
GS Trần Thọ Đạt

GS Trần Thọ Đạt: Đây là những mục tiêu thể hiện khát vọng lớn. Để đạt được mục tiêu khá tham vọng này, cần có sự bứt tốc ngay từ những năm đầu của việc thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm. Theo Báo cáo “Tương lai nền kinh tế số Việt Nam hướng tới năm 2030 và 2045” (Tổ chức Data61 - Úc), GDP Việt Nam có thể tăng thêm hàng năm từ 0,38 đến 1,1% tùy vào các kịch bản khác nhau của chuyển đổi số. Trong 10 năm qua, kinh tế số Việt Nam đã phát triển không ngừng về cả nền tảng hạ tầng lẫn thị trường kinh doanh, nền kinh tế đã ghi nhận sự xuất hiện xu hướng số hóa ở nhiều lĩnh vực, các ngành kinh tế, từ ngân hàng, tài chính, thương mại, đến giáo dục, y tế…

Các yếu tố cấu thành kinh tế số tại Việt Nam hiện đang có những dư địa tăng trưởng khác nhau. Kinh tế số lõi ICT đang chiếm khoảng 4,5% GDP toàn cầu, trong khi ước tính của ta đang chiếm khoảng 5,5 % GDP cả nước, cao hơn mức bình quân toàn cầu 1%. Về cấu phần kinh tế số Internet/kinh tế nền tảng hiện nay ở Việt Nam ước tính chỉ mới khoảng 1,7% GDP, rất thấp so với trung bình toàn cầu là 15% GDP toàn cầu, do vậy dự địa tăng trưởng còn lớn. Về cấu phần kinh tế số ngành, lĩnh vực thường chiếm khoảng 10% GDP toàn cầu, nhưng ở Việt Nam, kinh tế số ngành, lĩnh vực ước tính hiện chiếm khoảng 1,7% GDP, cũng cho thấy kinh tế số internet Việt Nam còn dư địa phát triển rất lớn.

Xét về tổng thể, mặc dù chưa có số liệu chính thức, nhưng theo ước tính từ nhiều nguồn, kinh tế số hiện nay ở Việt Nam đang chiếm khoảng 8,2% GDP. Như vậy, có thể thấy các mục tiêu phát triển kinh tế số mà Đảng, Chính phủ đặt ra là rất thách thức, bởi theo kịch bản phát triển thông thường thì đến năm 2025 kinh tế số Việt Nam chỉ đạt mức 10,5% GDP. Theo tính toán của Bộ Thông tin Truyền thông, để đạt được mục tiêu kinh tế số chiếm 20% theo kịch bản phát triển nhanh, chúng ta cần duy trì mức tăng trưởng kinh tế số bình quân hàng năm khoảng 20%, gấp 3 lần tăng trưởng GDP dự kiến (6,5-7%/năm).

Cần một định nghĩa “kinh tế số” và thực hiện đồng bộ 6 giải pháp

Chuyên gia Nguyễn Thy Nga: Để Việt Nam khai thác tiềm năng phát triển kinh tế số, đạt được các mục tiêu đã đề ra, để kinh tế số sớm bứt tốc, theo ông, đâu là những giải pháp quan trọng nhất?

GS Trần Thọ Đạt: Trước hết, Chính phủ cần sớm ban hành chiến lược quốc gia về kinh tế số mang tính toàn diện và thiết lập các cơ quan chuyên trách về kinh tế số, với một cơ quan chịu trách nhiệm chính trong quá trình thực hiện. Tiếp đến, hoàn thiện khung thể chế, cơ chế quản lý phù hợp với môi trường kinh doanh số, tạo thuận lợi cho đổi mới sáng tạo phù hợp với các khuôn khổ pháp lý khu vực và toàn cầu để phát triển kinh tế số, đặc biệt là các mô hình và phương thức kinh doanh mới để kinh tế số sớm tăng quy mô và gia tăng tỷ trọng đóng góp trong tăng trưởng nói chung. Các chính sách về kinh tế số cần bảo đảm cơ sở pháp lý vững chắc, thống nhất trong triển khai và thực hiện các kế hoạch, chương trình về kinh tế số.

Thứ hai, sớm đưa ra một định nghĩa “kinh tế số” được thống nhất rộng rãi, đạt được đồng thuận cao; từ đó đo lường kinh tế số một cách nhất quán để so sánh và xây dựng các giá trị kinh tế số “cơ sở” của một năm, làm căn cứ cho việc đặt mục tiêu phát triển kinh tế số về quy mô và tốc độ phát triển của các ngành và địa phương.

Thứ ba, gia tăng đầu tư, đặc biệt là đầu tư công nhằm nâng cấp đồng bộ kết cấu hạ tầng và dịch vụ số thiết yếu và rộng khắp, bao quát mọi ngõ ngách của nền kinh tế và đến từng công dân, xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng dữ liệu quốc gia, đầu tư nâng cấp hạ tầng kỹ thuật bảo đảm an toàn, an ninh mạng, nâng cấp hạ tầng các ngành, lĩnh vực quan trọng, thiết yếu một cách đồng bộ, tạo điều kiện cho người dân và doanh nghiệp được sử dụng những tiện ích do kinh tế số mang lại.

Thứ tư, nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế số và chuyển đổi số quốc gia, qua đó có sự chuẩn bị tốt nhất cho khả năng thích ứng các xu hướng phát triển này đối với doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ. Các doanh nghiệp cần chủ động nắm bắt cơ hội, tối ưu hóa mô hình kinh doanh, phát triển kỹ năng mới cho từng cá nhân và tổ chức, sớm triển khai tích hợp công nghệ số hóa, thúc đẩy phát triển những giải pháp sản xuất và kinh doanh dựa trên số hóa, tham gia hiệu quả hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu, năng cao năng lực quản trị phù hợp với những mô hình sản xuất, kinh doanh và hợp tác mới.

Thứ năm, khi tham gia vào thị trường lao động trong nền kinh tế số, người lao động phải đổi mới để thích nghi với các kỹ năng, kiến thức và các phương thức kinh doanh truyền thống trước đây nay đang dần chuyển sang môi trường số. Nhìn dài hạn, cần phát triển nguồn nhân lực theo hướng tăng cường năng lực tiếp cận và khả năng thích ứng với môi trường công nghệ liên tục thay đổi, phát triển, từ đó thúc đẩy tư duy sáng tạo, đổi mới hệ thống giáo dục đào tạo với việc thay đổi từ quản lý giáo dục, phương pháp dạy, giáo trình dạy và các môn hoc mới gắn với số hóa. Triển khai các chương trình đào tạo, đào tạo lại kỹ năng lãnh đạo, quản lý chuyển đổi số cho người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, giám đốc điều hành và đội ngũ quản trị các cấp của doanh nghiệp.

Thứ sáu, hiểu biết một cách đúng đắn và toàn diện cả về lợi ích cũng như về thách thức đối với kinh tế số là một trong những điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế số theo con đường tối ưu nhất có thể được. Một thách thức của kinh tế số là góp phần làm sâu sắc thêm phân hóa giàu-nghèo trong xã hội, vì các cơ hội “làm giàu” từ kinh tế số sẽ tùy thuộc vào năng lực thích ứng vốn rất khác nhau của các tác nhân trong nền kinh tế. Ngoài ra, vấn đề thuế kinh tế số như là một hệ quả từ thách thức đo lường kinh tế số, tính đa dạng và sự cải tiến không ngừng các hình thức kinh doanh số sẽ làm gia tăng độ phức tạp của vấn đề thuế đối với kinh tế số trong việc thực hiện bài toán công bằng và hiệu quả.

Từ Chính sách ra Cuộc sống: Kinh tế số mở cơ hội hiếm có cho Việt Nam
Chuyên gia Nguyễn Thy Nga và GS. Trần Thọ Đạt

Chuyên gia Nguyễn Thy Nga: Kinh tế số là đòn bẩy quan trọng để phục hồi kinh tế trước mắt và tạo đà cho phát triển kinh tế - xã hội bền vững trong dài hạn. Đây không chỉ là vấn đề quản trị quốc gia, mà còn là quản trị vùng, quản trị địa phương, cần đến vai trò chủ động của các địa phương, năng lực hợp tác, liên kết giữa các địa phương, vùng, tiểu vùng để khai thác, sử dụng nguồn lực hiệu quả, phát huy tốt các hệ động lực cho phát triển. Hiện tại một số tỉnh, thành phố đã ban hành các Nghị quyết, xây dựng Đề án chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, chính quyền số, xã hội số. Ông có nhận xét gì về các Nghị quyết, Đề án này?

GS Trần Thọ Đạt: Cho đến nay, hầu hết các tỉnh, thành đều có Nghị quyết, Đề án chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, chính quyền số, xã hội số, một số tỉnh đã có khá sớm như Thái Nguyên, Quảng Ninh, Đà Nẵng…

Những Nghị quyết/Đề án này đều thể hiện quyết tâm cao và trách nhiệm lớn của các địa phương trong việc cụ thể hóa Văn kiện Đại hội XIII và Chiến lược chuyển đổi số quốc gia của Chính phủ. Tuy nhiên, có một số điểm cần lưu ý trong việc triển khai thực hiện, rà soát, bổ sung, hoàn thiện các Chiến lược/Đề án này:

- Hầu hết các mục tiêu định lượng trong các đề án chuyển đối số, phát triển kinh tế số của các địa phương đều “na ná” như nhau và tương tự như các mục tiêu đề ra của cả nước trong Chương trình chuyển đổi số quốc gia theo Quyết định 749, “bản sắc địa phương” của các Nghị quyết/Đề án còn khá mờ. Chúng ta đã có những bất cập trong việc áp dụng cơ cấu kinh tế của cả nước cho tất cả các tỉnh, thành trong giai đoạn vừa qua. Khi phân tích về những thách thức phát triển kinh tế số của Việt Nam, có một yếu tố khách quan dễ nhận thấy chính là địa lý và phân bố dân cư dàn trải, dẫn đến chi phí cao trong lắp đặt thêm các kết cấu hạ tầng và nâng cấp nền tảng sẵn có, chi phí logistic, đặc biệt tại các khu vực miền núi và vùng thường xuyên xảy ra thiên tai. Ngoài ra, trình độ và kỹ năng của lực lượng lao động thích ứng với cách mạng công nghiệp 4.0 có chênh lệch lớn giữa các địa phương, vùng miền. Do đó, tiềm năng và tương lai phát triển kinh tế số của các địa phương là rất khác nhau, không thể “dàn hàng ngang cùng tiến” trong phát triển kinh tế số.

- Thứ hai, tính “cụ thể hóa” trong việc triển khai các mục tiêu về tỷ trọng kinh tế số trong GDP, các ngành, chỉ tiêu tăng năng suất lao động chưa cao. Hầu hết các Đề án đều chưa chỉ rõ về định lượng cơ cấu phát triển kinh tế số (kinh tế số lõi, kinh tế Internet và kinh tế ngành), tác động cùa kinh tế số trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung của tỉnh, các kịch bản phát triển kinh tế số khác nhau,…

- Thứ ba, Chính phủ cần sớm có cơ chế thúc đẩy phát triển kinh tế số tại các vùng kinh tế trọng điểm để liên kết các đề án chuyển đổi số và phát triển kinh tế số của các địa phương thuộc vùng trọng điểm, phát huy lợi thế vùng không chỉ là nơi có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, mà còn có các điều kiện và tiềm năng thuận lợi để phát triển kinh tế số.

Chuyên gia Nguyễn Thy Nga: Xin chân thành cảm ơn Giáo sư!

Theo thống kê, bình quân nguồn lực cho chuyển đổi số của các nước khoảng 15%, tuy nhiên ở Việt Nam con số này mới khoảng 10%. Có thể thấy, dư địa cho việc chuyển đổi số trong phát triển kinh tế và tăng cường năng lực cạnh tranh còn rất lớn. Các hoạt động tiếp tục tập trung vào 3 nhiệm vụ quan trọng nhất đó là: Cơ sở dữ liệu; dịch vụ công trực tuyến; thúc đẩy thanh toán, giao dịch điện tử.

https://tuchinhsachracuocsong.vn