VERP dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2021 đạt 6-6,3%
Tín hiệu phục hồi từ kinh tế toàn cầu
Báo cáo của VEPR nhận định nền kinh tế toàn cầu trong quý I năm 2021 đã có dấu hiệu phục hồi với niềm tin đến từ vaccine COVID-19, nhưng vẫn hàm chứa nhiều bất ổn và thiếu sự đồng đều giữa các quốc gia và lĩnh vực kinh tế. Nhiều yếu tố và thách thức đan xen tác động mạnh đến tăng trưởng kinh tế chung. Giá dầu tăng cao trong Quý 1/2021 nhờ nỗ lực cắt giảm sản lượng của OPEC+ và triển vọng sáng lên của kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, đà tăng có khả năng bị đảo ngược trong quý tới do tinh hình dịch bệnh bất ổn ở châu Âu và quyết định nâng sản lượng khai thác dầu trong thời gian từ tháng 5 đến tháng 7 của OPEC+.
Đáng chú ý, nền kinh tế Trung Quốc, một trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới đã hồi phục tăng trưởng về mức trước đại dịch. Trong năm 2021, chính phủ Trung Quốc chủ trương tiếp tục duy trì chính sách tiền tệ linh hoạt và các gói kích thích tài khóa nên dự báo sẽ có nhiều tác động lớn tới thị trường tài chính, thương mại và đầu tư toàn cầu. Với nền kinh tế lớn nhất thế giới là Mỹ, cùng với các chính sách hỗ trợ hiệu quả và việc tiêm chủng vaccine phòng ngừa dịch COVID19 được thúc đẩy mạnh mẽ, nền kinh tế Mỹ trong năm 2021 được dự đoán phục hồi nhanh hơn mức dự báo tháng 10/2020.
Tuy nhiên, tiến trình phục hồi kinh tế của khu vực EU, đặc biệt các quốc gia phụ thuộc vào du lịch dự báo sẽ tiếp tục gặp nhiều khó khăn trong năm 2021 trước tình hình dịch bệnh bùng phát trở lại do xuất hiện biến thể mới của SARS-COVID-2, cộng thêm tiến độ tiêm chủng vaccine còn chậm chạp và tình hình dịch bệnh xấu đi vào cuối tháng Ba. Kinh tế Nhật Bản trong quý IV/2020 cho thấy sự phục hồi, trong khi các nước khác thuộc khối BRICS và ASEAN-5 tiếp tục phục hồi yếu ớt và ghi nhận mức tăng trưởng âm.
Kinh tế Việt Nam giữ đà tăng trưởng ổn định
Các số liệu tổng hợp và phân tích của VERP cho thấy, kinh tế Việt Nam trong quý I/2021 giữ mức tăng trưởng 4,48% từ Quý 4/2020, cao hơn mức tăng trưởng 3,82% so với cùng kỳ năm 2020. Trong Quý 1 năm 2021, cả nước có 29,3 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 447,8 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký là 245,6 nghìn lao động, giảm 1,4% về số doanh nghiệp, tăng 27,5% về vốn đăng ký và tăng 0,8% về số lao động so với cùng kỳ năm 2020.
VERP dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2021 đạt 6-6,3% nếu tận dụng được tối đa các cơ hội phục hồi
CPI bình quân quý I/2021 tăng 0,29% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng thấp nhất trong vòng 20 năm trở lại đây. Mặc dù vậy, lạm phát được kì vọng sẽ tăng nhanh bắt đầu từ Tháng 4/2021. Thị trường tài chính tiền tệ nhìn chung không có biến động lớn. Tỷ giá trung tâm có xu hướng tăng nhẹ trong suốt Quý 1/2021, kết thúc quý ở mức 23.244 VND/USD. Tỷ giá tại các ngân hàng thương mại giảm vào tháng Một và tăng nhẹ từ tháng Hai, kết thúc ở 23.170 VND/USD. Giá vàng trong nước liên tục chênh lệch cao so với giá vàng trên thế giới do nguồn cung trở nên khan hiếm sau khi chính phủ siết chặt quản lý đường biên để ngăn chặn dịch COVID-19, trong khi nhu cầu dự trữ giá trị bằng vàng của người dân vẫn tăng.
Triển vọng trở lại quỹ đạo tăng trưởng
Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đã có dấu hiệu phục hồi với niềm tin đến từ vaccine COVID-19 song vẫn hàm chứa nhiều bất ổn, theo nhận định của PGS. TS Phạm Thế Anh, chuyên gia kinh tế vĩ mô, kinh tế Việt Nam sẽ nhiều cơ hội để trở lại quỹ đạo tăng trưởng nếu có thể nắm bắt được các cơ hội phục hồi và xử lý tốt vấn đề lạm phát.
Theo đó VERP đưa ra dự báo, tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2021 có thể đạt mức 6,0-6,3% với khuyến nghị chính sách tiền tệ cần lưu ý cân đối giữa hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và ổn định vĩ mô, vì năm 2021 có thể có rủi ro lạm phát.
Theo phân tích của TS Thế Anh, những yếu tố có thể hỗ trợ cho tăng trưởng gồm: Chính phủ kiểm soát tốt dịch bệnh từ giai đoạn sớm giúp duy trì hoạt động kinh tế trong nước, kỳ vọng về triển vọng kinh tế do việc hoàn tất ký kết Hiệp định thương mại tự do và bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và EU (EVFTA và IPA) đem lại; tiến độ giải ngân và thi công các dự án đầu tư công trọng điểm được đẩy nhanh hơn; làn sóng dịch chuyển đầu tư và thương mại nhằm phân tán rủi ro từ cuộc xung đột thương mại Mỹ - Trung; môi trường vĩ mô ổn định, lạm phát kiểm soát được ở mức chấp nhận được, tạo môi trường cho việc thực thi các chính sách hỗ trợ tăng trưởng.
“Tuy vậy, Việt Nam cũng đang gặp nhiều rủi ro và thách thức trong một môi trường kinh tế thế giới bất trắc. Sự tái bùng phát của COVID-19 tại nhiều nước đi kèm với các biện pháp phong tỏa tiếp tục kéo dài thời gian đứt gãy của chuỗi cung ứng trong năm 2021 khiến sức chịu đựng của doanh nghiệp ngày càng yếu hơn; xung đột địa chính trị giữa các nước lớn có thể khiến một nền kinh tế có độ mở lớn như Việt Nam đối diện những rủi ro bất ngờ”, ông Thế Anh nhận định.
Bên cạnh đó, điểm yếu của kinh tế Việt Nam còn đến từ các rủi ro nội tại như mất cân đối tài khóa lớn, tốc độ và mức độ đầu tư phát triển, đặc biệt là hạ tầng, còn chậm cho hiệu quả quản lý thấp; sức khỏe hệ thống ngân hàng – tài chính tuy dần được củng cố nhưng còn dễ tổn thương; sự phụ thuộc nặng nề của tăng trưởng vào khu vực FDI, thiếu tự chủ công nghệ và nguyên liệu; chất lượng lao động thấp và chậm cải thiện; hiệu quả đầu tư công thấp và tình trạng nhũng nhiễu của bộ máy công quyền còn nặng nề; tiến trình cổ phần hóa DNNN bị ngưng trệ, môi trường và thể chế kinh doanh dù từng bước được cải thiện nhưng về căn bản chưa giải phóng được sức mạnh của doanh nghiệp.
“Cân nhắc những yếu tố tích cực cũng như tiêu cực đang tác động lên nền kinh tế Việt Nam hiện nay, chúng tôi đưa ra các dự báo về tăng trưởng theo các kịch bản khác nhau về tình hình bệnh dịch. Việc thành lập bộ máy lãnh đạo Đảng - Nhà nước mới, với Chính phủ mới, hứa hẹn một triển vọng kinh tế năng động trở lại trong năm 2021 và sau đó. Hơn nữa, với điều kiện dịch COVID-19 tiếp tục được khống chế ổn định ở trong nước và kinh tế thế giới bắt đầu khởi sắc do các biện pháp phong tỏa được dần gỡ bỏ, chúng tôi dự kinh tế Việt Nam năm 2021 có thể đạt mức tăng trưởng trong khoảng 6,0-6,3%. Dù lạm phát chưa trở thành một mối đe dọa vĩ mô, rủi ro đang tiếp tục tích lũy. Đặc biệt, thị trường tài sản có nhiều dấu hiệu cho thấy đang trong tình trạng bong bóng, có thể mang lại rủi ro cho hệ thống tín dụng và hoạt động kinh tế”, ông Thế Anh dự báo.
Cảnh báo bong bóng bất động sản và thị trường chứng khoán
Theo khuyến nghị của các chuyên gia, để đạt được mục tiêu tăng trưởng nói trên, các chính sách an sinh xã hội, lao động và đặc biệt là hỗ trợ doanh nghiệp cần tiếp tục được thực hiện theo hướng khẩn trương, tập trung, đúng đối tượng và thực chất hơn, theo sát với nhu cầu của doanh nghiệp. Việc khoanh/ngưng, miễn giảm chi phí tài chính cho doanh nghiệp như lãi vay, tiền thuê đất cần tiếp tục được triển khai, bên cạnh đó cần cân nhắc cắt giảm kinh phí công đoàn để hỗ trợ doanh nghiệp.
Với nhóm doanh nghiệp không bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh hoặc có hướng chuyển đổi hiệu quả, nên khuyến khích tín dụng, tạo điều kiện về môi trường thể chế và chính sách ngành. Trong trường hợp có các ý tưởng chính sách để hỗ trợ đặc biệt cho các doanh nghiệp cụ thể, thì các chính sách này cần đi theo hướng kích cầu, hỗ trợ người tiêu dùng thanh toán chi phí mua sản phẩm/dịch vụ, thay vì tài trợ trực tiếp cho doanh nghiệp.
“Việc giãn/giảm thuế, nếu có, chỉ nên được áp dụng với thuế VAT thay vì thuế TNDN, vì giảm thuế TNDN chỉ hỗ trợ được số ít doanh nghiệp không bị ảnh hưởng hoặc đang hưởng lợi từ các tác động của dịch bệnh, chứ không giúp được đa số các doanh nghiệp đang gặp khó khăn. Từ đó, việc giảm thuế TNDN còn có nguy cơ tạo ra bất bình đẳng sâu sắc hơn trong môi trường kinh doanh, ảnh hưởng không tốt đến việc phục hồi kinh tế sau đại dịch”, PGS. TS. Nguyễn Anh Thu khuyến nghị.
Cũng theo các chuyên gia, trong năm 2021, những thị trường lớn của Việt Nam như Mỹ và Trung Quốc dự báo sẽ có sự phục hồi đáng kể, hứa hẹn nhiều lợi thế cho các doanh nghiệp xuất khẩu.
Chính sách tiền tệ, cụ thể là công cụ lãi suất trong năm 2021 sẽ giảm hiệu quả đáng kể. Đặc biệt, TS Cấn Văn Lực, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV nhấn mạnh lưu ý tình trạng bong bóng tài sản đang hình thành trên thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản. "Chính phủ cần thận trọng trong điều hành lạm phát để duy trì đà tăng trưởng kinh tế, nếu kiểm soát lạm phát thái quá thì kinh tế không phát triển được. Với thị trường chứng khoán, cơ quan quản lý cần không để thị trường phát triển quá nóng, thiếu chuyên nghiệp, nghẽn lệnh kéo dài; gói hỗ trợ ngành hàng không cần đẩy nhanh hơn. Đặc biệt lưu ý, cơn sốt bất động sản đã lan ra 35 tỉnh thành, cần chấn chỉnh kịp thời", ông Lực cảnh báo.
TS Thế Anh cho rằng, thực tế trong năm 2020, các thị trường tài sản đã có sự tăng trưởng đáng kể, chủ yếu vì đó là nơi trú ẩn cho khoản tiền nhàn rỗi của nhà đầu tư và hộ gia đình. Điều này có thể hiểu được trong giai đoạn khủng hoảng. Tuy nhiên, việc lãi suất huy động tiền gửi liên tục hạ do cầu tín dụng giảm, đang đẩy dòng tiền tiết kiệm ra khỏi ngân hàng ngày càng nhanh hơn. Điều này cần hết sức lưu ý bởi khi mức tăng giá trên các thị trường tài sản đủ lớn để tạo ra hiệu ứng của cải (wealth effect) thì mức tiêu dùng sẽ tăng đối với các mặt hàng không phải thiết yếu. Điều này dẫn tới sự lan tỏa của sự tăng giá từ thị trường tài sản sang thị trường tiêu dùng, dù chậm chạp, nhưng có thể cảm nhận được. Đây cũng là một biểu hiện của hiện tượng tăng giá khi chính sách nới lỏng tiền tệ được theo đuổi trong thời gian đủ dài.
Trong mọi tình huống, ổn định kinh tế vĩ mô, cụ thể là lạm phát, lãi suất và tỷ giá cần được duy trì ổn định, là hết sức cần thiết để chuẩn bị cho giai đoạn phục hồi sau bệnh dịch. Đa dạng hóa thị trường xuất/nhập khẩu cũng cần được chú trọng hơn nữa nhằm tránh phụ thuộc nặng nề vào một số đối tác kinh tế lớn. Trong khó khăn, nhiều bất cập trong việc điều hành chính sách kinh tế cũng đã bộc lộ nên các nỗ lực cải thiện thủ tục hành chính, môi trường kinh doanh cần tiếp tục được duy trì. Đặc biệt, dù có chậm trễ, Việt Nam nên từng bước xây dựng đệm tài khóa để phòng chống những cú sốc kiểu COVID–19, hoặc những diễn biến bất ngờ của chính bệnh dịch này, trong những năm tới.
Các chuyên gia cũng cho rằng, năm 2021 là năm đầu tiên của nhiệm kỳ lãnh đạo mới của Đảng và Nhà nước, do đó, đây là năm được kỳ vọng sẽ có nhiều bước đi mới, chính sách mới và hành động cụ thể để phát triển kinh tế-xã hội. Chính sách hữu ích nhất trong bối cảnh hiện nay là các chính sách trọng cung, nhằm củng cố các yếu tố nền tảng của nền kinh tế. Cụ thể, đó là các chính sách cải cách hành chính, nâng cao chất lượng bộ máy quản lý nhà nước, đặc biệt ở địa phương, nhằm cải thiện môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp và người dân. Bên cạnh đó là những nhóm chính sách vẫn được kêu gọi cần thực hiện trong suốt những năm qua nhưng chưa được thực hiện quyết liệt và hữu hiệu, từ lĩnh vực giáo dục cho tới tài chính-ngân hàng, từ khoa học-công nghệ đến cơ sở hạ tầng, từ chính sách ngành tới cải cách doanh nghiệp nhà nước, v.v… đều cần tiếp tục thúc đẩy với một tinh thần mới và phương pháp mới, tôn trọng thị trường nhiều hơn, đặt người dân vào trung tâm, và tôn trọng các xu thế phát triển mới./.
Bình luận