Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) vừa có văn bản góp ý cho Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của 5 luật thuế, trong đó có nhiều đề xuất liên quan đến Luật Thuế giá trị gia tăng.

Hạn chế tối đa phạm vi những mặt hàng thuộc diện không chịu thuế

Theo VCCI, Luật Thuế giá trị gia tăng hiện hành vẫn quy định rất nhiều loại hàng hoá là đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng, như: sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến; giống vật nuôi, giống cây trồng; phân bón; máy móc nông nghiệp…

Điều này khiến những doanh nghiệp trong nước sản xuất loại hàng hoá này để tiêu dùng trong nước không được khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào, dẫn đến nhiều doanh nghiệp trong các lĩnh vực trên gặp rất nhiều thiệt thòi, đặc biệt là những mặt hàng có sự cạnh tranh của hàng hoá nhập khẩu. Do hàng nhập khẩu được hưởng thuế suất 0% ở nước xuất khẩu và không chịu thuế giá trị gia tăng tại Việt Nam, nên có lợi thế về thuế hơn so với sản phẩm sản xuất trong nước. Vô hình chung, quy định này khuyến khích nhập khẩu, đi ngược lại chính sách khuyến khích sản xuất trong nước.

Nhiều doanh nghiệp gặp thiệt thòi vì có quá nhiều mặt hàng thuộc đối tượng không chịu thuế

Về nội dung này, tờ trình sửa đổi các luật về thuế của Bộ Tài chính mới chỉ phản ánh trường hợp một số doanh nghiệp trong nước sản xuất mặt hàng, như: máy nông nghiệp, tàu cá, phân bón chịu thiệt hại từ quy định. Tuy nhiên, như trên phân tích, vấn đề không chỉ dừng lại đối với một vài loại hàng hoá như vậy, mà bao gồm tất cả những loại hàng hoá hiện đang là đối tượng không chịu thuế.

VCCI nhận được nhiều kiến nghị của các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, cơ khí chế tạo phản ánh về tình trạng này. Những chi phí đầu vào như nguyên vật liệu, năng lượng, quảng cáo, dịch vụ mặt bằng, kho bãi, dịch vụ vận chuyển… đều có thuế GTGT đầu vào nhưng không được khấu trừ.

Thậm chí, cách tính thuế này còn dẫn đến hệ quả làm giảm động lực chuyên môn hoá và phân công lao động trong những lĩnh vực sản xuất trên. Bởi doanh nghiệp nào càng ít mua sắm, sử dụng hàng hoá, dịch vụ mua ngoài thì số thuế giá trị gia tăng không được khấu trừ càng ít và càng được lợi về thuế.

Trước đây, các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp thường được tổ chức dưới dạng kinh tế hộ gia đình. Năng lực kê khai và nộp thuế của các chủ thể này có thể không tốt bằng các doanh nghiệp nên việc cho phép khấu trừ và hoàn thuế có thể dẫn đến những kẽ hở về thuế.

Tuy nhiên, thực tế này cũng đang thay đổi. Cùng với chủ trương của Chính phủ về việc khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp hiện nay, đã có rất nhiều doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực sản xuất này. Các chính sách thuế cũng cần đồng bộ với chủ trương này.

Do đó, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu, hạn chế tối đa phạm vi những mặt hàng thuộc diện không chịu thuế, chuyển các mặt hàng đó sang diện chịu thuế suất 0%, 5% hoặc 10% tuỳ vào mục tiêu chính sách.

Duy trì quy định chuyển quyền sử dụng đất không thuộc đối tượng chịu thuế

Theo quy định hiện hành, các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản phải nộp thuế giá trị gia tăng dựa trên “giá bán bất động sản chưa thuế trừ giá chuyển quyền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất phải nộp ngân sách nhà nước”. Tờ trình của Bộ Tài chính đưa ra lý do chính để đánh thuế giá trị gia tăng đối với chuyển quyền sử dụng đất là vì “khó khăn do không có cơ sở hoặc không xác định được thế nào là giá chuyển quyền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất phải nộp ngân sách”.

Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp phản ánh với VCCI rằng, việc tính toán giá chuyển quyền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất của họ không có gì khó khăn. Kể cả khi có vướng mắc trong xác định giá tính thuế đi chăng nữa thì cũng có thể được tháo gỡ thông qua việc hướng dẫn chi tiết cách tính, hoặc ấn định một cách tính giá chuyển quyền sử dụng đất khi tính thuế. Khó khăn trong việc xác định giá trị được trừ khi tính thuế không thể là lý do để không cho phép trừ phần giá trị đó.

Theo Điều 3 của Luật Thương mại, đất đai hay quyền sử dụng đất không phải là hàng hoá, dịch vụ. Điều 2 của Luật Thuế giá trị gia tăng đây là loại thuế “tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng”.

Do đó, theo VCCI, việc đánh thuế giá trị gia tăng đối với chuyển quyền sử dụng đất sẽ không phù hợp với bản chất của loại thuế này.

Việc đánh thuế giá trị gia tăng đối với chuyển quyền sử dụng đất đặt ra câu hỏi về người nộp thuế. Liệu người nộp thuế (1) chỉ là các tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản, hay (2) bao gồm cả những tổ chức, cá nhân mua bán bất động sản quy mô nhỏ, không thường xuyên (không kinh doanh)?

Nếu chỉ những tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản phải nộp khoản thuế này thì sẽ gây ra sự bất bình đẳng về thuế khi mà những tổ chức, cá nhân khác không phải nộp. Hơn nữa, nó sẽ càng làm gia tăng những nhà đầu tư cá nhân mặc dù không đăng ký kinh doanh bất động sản nhưng vẫn mua đi bán lại bất động sản nhằm mục đích thu lợi.

Ngược lại, nếu yêu cầu cả những tổ chức, cá nhân mua bán bất động sản quy mô nhỏ, không thường xuyên (không kinh doanh) cũng phải nộp thuế GTGT thì sẽ gây những khó khăn lớn về việc lưu giữ hoá đơn, khấu trừ thuế, hoàn thuế do thời điểm mua và thời điểm bán bất động sản có thể cách nhau nhiều năm.

Theo đó, việc đánh thuế giá trị gia tăng đối với chuyển quyền sử dụng đất còn có thể gây nhiều tác động lớn như làm tăng giá đất đai, ảnh hưởng đến quyền tiếp cận mặt bằng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, quyền tiếp cận chỗ ở của người dân.

Với những lý do đó, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo vẫn duy trì quy định chuyển quyền sử dụng đất không thuộc đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng như Luật Thuế giá trị gia tăng hiện hành.

Cân nhắc thêm việc tăng thuế suất thuế giá trị gia tăng

Đối với thuế suất phổ thông, cơ quan soạn thảo đề xuất tăng thuế từ 5% lên 6% và tăng thuế từ 10% lên 12% đối với các loại hàng hoá, dịch vụ tương ứng.

Đây là một sự thay đổi chính sách rất lớn, tuy nhiên lại chưa được đánh giá một cách đầy đủ trong tờ trình. Tờ trình mới chỉ đề cập đến tác động tăng thu ngân sách chứ chưa đề cập đến các tác động khác về kinh tế, xã hội của việc tăng thuế này.

Về mặt xã hội, theo ý kiến của nhiều chuyên gia, thuế giá trị gia tăng là loại thuế luỹ thoái đánh vào tiêu dùng. Mặc dù tăng cùng một mức thuế suất, nhưng người có thu nhập thấp lại chịu tác động lớn hơn do tỷ lệ chi tiêu cho tiêu dùng trên tổng thu nhập của người có thu nhập thấp cao hơn người có thu nhập cao.

Như vậy, xét về tác động xã hội, việc tăng thuế giá trị gia tăng có thể làm tăng khoảng cách giàu nghèo, gây khó khăn hơn cho các hoạt động xoá đói giảm nghèo và có thể kéo theo nhiều hệ luỵ xã hội khác.

Về mặt kinh tế, việc tăng thuế giá trị gia tăng sẽ tác động tiêu cực đến nền kinh tế và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Tăng thuế giá trị gia tăng vừa tạo ra chi phí đẩy, vừa giảm sức cầu của nền kinh tế, từ đó ảnh hưởng rất lớn đến các mục tiêu vĩ mô mà Chính phủ đề ra.

Qua tham luận và trao đổi của các chuyên gia và doanh nghiệp, VCCI đề nghị Bộ Tài chính cần cân nhắc một số hệ quả của chính sách này: (1) chi phí thuế tăng có thể sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế; (2) trong 3 nhóm doanh nghiệp (quốc doanh, dân doanh trong nước và FDI) thì các doanh nghiệp dân doanh trong nước sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của việc tăng thuế GTGT; (3) việc tăng thuế còn có nguy cơ ảnh hưởng đến năng lực tạo việc làm của nền kinh tế Việt Nam; (4) việc tăng thuế có thể sẽ kéo theo lạm phát.

Với những tác động kinh tế - xã hội như vậy, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo hết sức cân nhắc việc tăng thuế GTGT như đề xuất./.