TS. Phạm Mỹ Hằng Phương

Khoa Tài chính – Ngân hàng, Học viện Chính sách và Phát triển

Email: hangphuong.mpi@apd.edu.vn

Tóm tắt

Đồng bằng sông Cửu Long nói chung và các tỉnh ven biển của vùng nói riêng thường xuyên phải đối diện với tình trạng xâm nhập mặn, gây ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất nông nghiệp và đời sống của người dân. Đặc biệt, hai đợt xâm nhập mặn kỷ lục năm 2015-2016 và 2019-2020 đã gây thiệt hại lớn về kinh tế cho vùng. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá thực trạng phát triển nông nghiệp tại một số tỉnh ven biển vùng Đồng bằng sông Cửu Long, tình hình xâm nhập mặn cùng những ảnh hưởng của nó đến sản xuất nông nghiệp của các tỉnh, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm ứng phó với xâm nhập mặn tại Đồng bằng sông Cửu Long trong thời gian tới.

Từ khóa: Xâm nhập mặn, nông nghiệp, Đồng bằng sông Cửu Long

Summary

The Mekong Delta, in general, and the coastal provinces of this region, in particular, face regular saltwater intrusion every year, which significantly affects agricultural production and the livelihoods of residents. Notably, the record saltwater intrusion events in 2015-2016 and 2019-2020 caused substantial economic damage to the region. This study was conducted to assess the current state of agricultural development in several coastal provinces of the Mekong Delta, the situation of saltwater intrusion its impact on agricultural production in these provinces, and propose solutions to cope with saltwater intrusion in the region in the coming time.

Keywords: Saltwater intrusion, agriculture, Mekong Delta

GIỚI THIỆU

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có vị trí đặc biệt quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội, ngày càng khẳng định được vị thế là vựa lúa, vựa trái cây lớn nhất của cả nước, góp phần bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, đồng thời đem lại giá trị xuất khẩu lớn cũng như tạo ra sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp, thủy sản nước ta với thế giới. Tuy nhiên, thách thức đến từ biến đổi khí hậu và xâm nhập mặn ảnh hưởng không nhỏ đến định hướng phát triển của vùng và thực tế cũng cho thấy những lần hạn mặn nghiêm trọng gây ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và đời sống của người dân vùng ĐBSCL, đặc biệt là các tỉnh ven biển.

Quyết định số 68/QĐ-TTg ngày 15/1/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh quy hoạch xây dựng vùng ĐBSCL đến năm 2030 và tâm nhìn đến năm 2050 đã phân chia không gian của vùng thành 3 tiểu vùng, trong đó tiểu vùng ven biển bao gồm các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Trà Vinh và một phần các tỉnh Kiên Giang, Sóc Trăng, Hậu Giang, Bến Tre, Tiền Giang, Long An. Quyết định số 287/QĐ-TTg ngày 28/2/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, cũng định hướng vùng theo 3 tiểu vùng sinh thái; trong đó vùng sinh thái mặn – lợ ở ven biển bao gồm một phần lãnh thổ của các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre, Tiền Giang, Long An. Trong khuôn khổ nghiên cứu này, tác giả sẽ tập trung vào phân tích tình hình phát triển nông nghiệp tại các tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh và Sóc Trăng (gọi tắt là tiểu vùng ven biển), hiện trạng xâm nhập mặn và ảnh hưởng của xâm nhập mặn đến phát triển ngành nông, lâm, thủy sản (NLTS) của các địa phương này, đồng thời đề xuất một số giải pháp phát triển ngành nông nghiệp tiểu vùng, thích ứng với xâm nhập mặn.

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGÀNH NÔNG NGHIỆP TIỂU VÙNG VEN BIỂN ĐBSCL

Các tỉnh tiểu vùng ven biển có đóng góp không nhỏ trong sản xuất nông nghiệp của cả vùng ĐBSCL. Năm 2024, quy mô ngành nông, lâm, thủy sản của tiểu vùng chiếm gần 40% quy mô ngành nông, lâm, thủy sản của toàn vùng ĐBSCL.

Bảng 1: Quy mô ngành NLTS các tỉnh tiểu vùng ven biển ĐBSCL năm 2024

Quy mô ngành NLTS (tỷ đồng)

Tỷ trọng trong GRDP của tỉnh (%)

Tỷ trọng trong GRDP ngành NLTS của vùng ĐBSCL (%)

Long An

29.834

15,82

7,06

Tiền Giang

50.928

37,10

12,06

Bến Tre

25.071

33,79

5,94

Trà Vinh

26.388

27,31

6,25

Sóc Trăng

33.910

42,31

8,03

Nguồn: Tổng hợp từ Cục Thống kê các tỉnh tiểu vùng ven biển ĐBSCL

Trong đó, Tiền Giang là tỉnh dẫn đầu tiểu vùng về quy mô ngành NLTS với quy mô 50,9 nghìn tỷ đồng năm 2024 (Bảng 1), tăng gấp 1,7 lần so với năm 2015 và đóng góp 12,06% trong tổng quy mô ngành NLTS của vùng. Ngành nông nghiệp cũng chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế của tỉnh Tiền Giang với tỷ trọng 37,1% năm 2024. Xếp thứ hai là tỉnh Sóc Trăng với quy mô 33,9 nghìn tỷ đồng năm 2024, tăng gấp 1,8 lần so với năm 2015 và chiếm 8,03% trong GRDP ngành NLTS của toàn vùng. Sóc Trăng là tỉnh có tỷ trọng ngành NLTS trong cơ cấu kinh tế của tỉnh cao nhất, chiếm 42,31% năm 2022. Long An là tỉnh thứ 3 trong tiểu vùng ven biển với quy mô ngành NLTS lớn, đạt 29,8 nghìn tỷ đồng năm 2024 và đóng góp hơn 7% vào GRDP ngành NLTS của vùng. Khác với 4 tỉnh còn lại, Long An là tỉnh duy nhất có tỷ trọng ngành NLTS thấp, dưới 16% trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Với vị trí là cửa ngõ nối liền Đông Nam Bộ và khu vực ĐBSCL cùng những lợi thế để phát triển công nghiệp, định hướng phát triển của Long An là phát triển công nghiệp, trở thành trung tâm phát triển kinh tế năng động, hiệu quả, bền vững của khu vực phía Nam. Các tỉnh còn lại là Bến Tre và Trà Vinh có quy mô của ngành nông nghiệp lần lượt là 25,07 và 26,38 nghìn tỷ đồng, tương ứng với mức đóng góp hơn 5,94% và 6,25% vào quy mô chung của toàn vùng.

Xét về tăng trưởng, Tiền Giang là tỉnh đứng đầu về tăng trưởng ngành NLTS bình quân giai đoạn 2015-2024 với tốc độ 3,13%. Các con số này ở Long An, Bến Tre và Sóc Trăng lần lượt là 2,78%, 2,63% và 2,91%. Trà Vinh là tỉnh có tăng trưởng bình quân ngành NLTS thấp nhất tiểu vùng trong giai đoạn 2015-2024, với tốc độ tăng 2,21%/năm và cũng là tỉnh duy nhất có tăng trưởng bình quân giai đoạn thấp hơn so với tăng trưởng bình quân của toàn vùng là 2,6%.

Tiền Giang có hệ sinh thái nông nghiệp rất đa dạng, với nhiều chủng loại cây ăn trái đặc sản, mang lại giá trị kinh tế cao như sầu riêng, mít, thanh long, vú sữa, xoài, chuối, bưởi... Trên địa bàn tỉnh, có 5 địa phương có diện tích cây ăn trái lớn (chiếm hơn 86% diện tích cây ăn trái của tỉnh) là huyện Cái Bè, huyện Cai Lậy, huyện Tân Phương, huyện Châu Thành, huyện Chợ Gạo. Trong những năm qua, tỉnh đã tập trung đầu tư chuyển đổi cơ cấu cây trồng và vật nuôi theo hướng nâng cao giá trị sản phẩm, chuyển dịch diện tích trồng cây hàng năm sang trồng cây lâu năm, các loại cây ăn quả có giá trị kinh tế cao.

Tận dụng những lợi thế về tự nhiên, tỉnh Bến Tre tập trung phát triển kinh tế vườn và kinh tế biển, hình thành nên các chuỗi giá trị nông sản dừa, bưởi da xanh, chôm chôm, nhãn, tôm biển, hoa kiểng… Sản xuất nông nghiệp của tỉnh đang chuyển dần từ nhỏ lẻ, manh mún sang chủ động hơn trong việc tham gia các liên kết ngang – dọc trong chuỗi; đồng thời từng bước chuyển đổi theo quy chuẩn sạch, an toàn; chuyển đổi những cây trồng, vật nuôi kém hiệu quả sang những vật nuôi, cây trồng mới có hiệu quả hơn.

Trà Vinh có những điều kiện thuận lợi để phát triển đa dạng sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là phát triển lúa gạo, rau màu, cây công nghiệp ngắn ngày, cây ăn trái và nuôi trồng thủy sản ngọt, lợ, mặn. Trong những năm qua, tỉnh đã phát huy thế mạnh về nông nghiệp và thúc đẩy kinh tế nông nghiệp phát triển khá toàn diện. Thủy sản được xem là ngành kinh tế mũi nhọn trong phát triển kinh tế nông nghiệp chung của tỉnh, phát triển cả trong đất liền, ven biển và trên biển về cả khai thác, nuôi trồng, chế biến và hậu cần dịch vụ nghề cá.

Nhận diện rõ những tiềm năng, thế mạnh, tỉnh Sóc Trăng luôn xác định kinh tế nông nghiệp là thế mạnh số 1, trong đó lúa là sản phẩm chủ lực của nông nghiệp Sóc Trăng (gạo ST25 tiếp tục được vinh danh trong top gạo ngon nhất thế giới năm 2024) và thủy sản (tôm nuôi) là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Cùng với hai sản phẩm chủ lực trên, trong những năm qua tỉnh cũng chú trọng đầu tư phát triển cây ăn trái, chăn nuôi bò… Nông nghiệp trên địa bàn tỉnh phát triển dần theo hướng sản xuất tập trung, sản xuất sạch gắn với tiêu thụ, xuất khẩu.

Tỉnh Long An cũng tận dụng những lợi thế về phát triển nông nghiệp, trong đó lúa là cây chủ lực, cùng các loại trái cây như thanh long, chanh không hạt, sầu riêng, bưởi… nhằm đẩy mạnh sản xuất, nâng cao năng suất, liên kết, trao đổi, kết nối tiêu thụ nông sản. Trong những năm qua, tỉnh cũng đã đẩy mạnh triển khai các mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn, nhân rộng mô hình với các sản phẩm lúa, thanh long, chanh, tôm… ứng dụng công nghệ cao, góp phần thúc đẩy ngành nông nghiệp tỉnh Long An phát triển bền vững, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung có năng suất, hiệu quả cao.

TÌNH HÌNH XÂM NHẬP MẶN VÀ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP TIỂU VÙNG VEN BIỂN ĐBSCL

Tình hình xâm nhập mặn

Là vùng đất thấp ven biển Việt Nam, hàng năm, khu vực ĐBSCL thường bị tình trạng nước biển xâm nhập sâu vào đất liền. Hiện tượng này xuất hiện theo chu kỳ và thường xảy ra gay gắt trong các tháng mùa khô, từ tháng 11 đến tháng 5 hàng năm. Độ mặn lớn nhất thường xuất hiện chủ yếu vào tháng 4 hoặc tháng 5 do ảnh hưởng của thủy triểu ở biển Đông, biển Tây hoặc cả hai (phần lớn vùng ĐBSCL chịu ảnh hưởng của thủy triều từ vùng biển phía Đông với chế độ bán nhật triều không đều và vùng biển phía Tây với chế độ triều hỗn hợp (Lê Hữu Thuần, 2011). Chế độ thủy triều mang nước biển kèm theo độ mặn đi sâu vào nội đồng, kết hợp với việc lưu lượng dòng chảy từ thượng nguồn sông Mê Công đổ về ít, càng làm trầm trọng thêm mức độ xâm nhập mặn. Bên cạnh đó, kết hợp với những ảnh hưởng từ biến đổi khí hậu về nắng nóng, thiếu hụt lượng mưa khiến ĐBSCL đối diện với mùa “lũ cạn”, lượng phù sa ít, khiến các cửa sông bị bào xói sâu hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho nước mặn lên cao. Ngoài những yếu tố tự nhiên, con người cũng gây ra những tác động trong khai thác và sử dụng nước: sức ép mùa vụ đã khiến nhu cầu sử dụng nước cho nông nghiệp, thủy sản ngày càng tăng cao; các công trình khai thác, sử dụng nước, hệ thống công trình thủy lợi như kênh rạch, cống ngăn mặn… giúp giảm đáng kể mặn từ biển xâm nhập vào nội đồng, nhưng cũng đồng thời làm giảm lượng nước ngọt chảy về hạ du; xây dựng đập thủy điện tại thượng nguồn làm giảm lưu lượng nước ở hạ du; cùng với việc khai thác cát cao gấp 2-5 so với lượng phù sa được bồi đắp, lòng các con sông ở ĐBSCL đang trở nên sâu hơn (Eslami Sepehr và cộng sự, 2019), khiến cho thủy triều ngày càng dâng cao, nước mặn đi sâu hơn vào trong nội đồng.

Tiểu vùng ven biển ĐBSCL với hệ thống các sông lớn đổ ra biển như sông Tiền, sông Hậu vàm Cỏ, Cửa Tiểu, Cổ Chiên, Hàm Luông…, thường xuyên gặp tình trạng xâm nhập mặn xâm lấn vào đất liền, gây ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và đời sống của người dân.

Thực tế, ĐBSCL nói chung và tiểu vùng ven biển ĐBSCL nói riêng đã đối diện với các đợt xâm nhập mặn nghiêm trọng năm 2015-2016 và 2019-2020. Trong đó, mùa khô năm 2015-2016 là năm có xâm nhập mặn sớm, sâu trên hệ thống sông, kênh vùng ven biển ĐBSCL. Năm 2015, do ảnh hưởng của hiện tượng El Nino khiến mùa mưa đến muộn nhưng kết thúc sớm, tổng lượng mưa trên lưu vực thiếu hụt so với trung bình nhiều năm (TBNN) từ 20-50% (Viện Quy hoạch thủy lợi miền Nam, 2016). Có hai nguồn nước ngọt cung cấp cho ĐBSCL trong mùa khô, một là từ sông Mê Công, hai là từ Biển Hồ. Do lượng mưa thiếu hụt nghiêm trọng, dẫn đến lượng trữ nước trong Biển Hồ (Tonle Sap) và dòng chảy đến Kratie (đầu châu thổ Mê Công) giảm sút nghiêm trọng. Vì vậy, mùa lũ năm 2015 thuộc năm lũ nhỏ dần, dẫn đến dòng chảy trong mùa khô từ thượng lưu chảy về ĐBSCL xuống ở mức thấp lịch sử. Độ mặn lớn nhất tại một số khu vực cửa sông thuộc tiểu vùng ven biển ĐBSCL: 8,1-20,3g/l tại khu vực sông Vàm Cỏ, 8,7- 31,5 g/l tại các cửa sông thuộc sông Tiền, 16,5-20,5 g/l tại các cửa sông thuộc sông Hậu (Hình).

Hình: Biểu đồ hiện trạng xâm nhập mặn lớn nhất vùng ĐBSCL tính từ đầu mùa khô 2015/2016 đến ngày 25/4/2016

Ảnh hưởng của xâm nhập mặn đến phát triển nông nghiệp một số tỉnh tiểu vùng ven biển Đồng bằng sông Cửu Long

Nguồn: Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam (2016)

Tiếp đó, mùa khô năm 2019-2020 có mực nước thậm chí thấp hơn cả năm 2015-2016. Xâm nhập mặn mùa khô năm 2019-2020 xuất hiện sớm hơn so với cùng kỳ trung bình nhiều năm gần 3 tháng, sớm hơn so với mùa khô năm 2015-2016 gần 1 tháng. Thời gian xâm nhập mặn kéo dài hơn 2-2,5 lần so với mùa khô 2015-2016 (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2020). Độ mặn ở các cửa sông Cửa Tiểu, Cửa Đại, Hàm Luông liên tục duy trì mức đỉnh, cao liên tục suốt tháng 2 đến tháng 5, hầu như không giảm hoặc giảm không đáng kể trong các kỳ triều thấp, khác với đặc điểm thông thường là tăng theo kỳ triều cường, giảm theo kỳ triều thấp. Nguyên nhân chủ yếu vẫn đến từ việc lưu lượng nước đổ về vùng ĐBSCL bị thiếu hụt nghiêm trọng so với TBNN. Lượng nước dòng chảy của sông Mê Công thiếu hụt từ 10% đến 30% so với TBNN và thấp hơn cả năm 2016, nhất là vào tháng 1 và tháng 2/2020. Bên cạnh đó, khả năng tích nước của các hồ chứa đầu mùa cạn là không nhiều, đặc biệt là các hồ chứa lớn chỉ tích được từ 40%-75% so với tổng dung tích hồ. Các hồ chứa thủy lợi vừa và nhỏ cũng chỉ tích được 70%-80%, nhiều hồ chỉ đạt 40%-50%. Ngoài ra, dưới tác động của biến đổi khí hậu, nhiệt độ trung bình tăng dẫn tới lượng nước bốc hơi tăng đáng kể và lượng mưa cuối mùa mưa năm 2019 giảm rõ rệt, thấp hơn nhiều so với lượng mưa TBNN. Do đó, nhu cầu sử dụng nước phục vụ dân sinh và sản xuất nông nghiệp tăng cao, gây áp lực lớn lên nguồn nước, tăng nguy cơ xâm nhập mặn tại vùng.

Tại mùa khô này, mặn xâm nhập vào tiểu vùng ven biển ĐBSCL với nồng độ tại các sông khá cao (Bảng 2), điển hình sông Vàm Cỏ (18,4 g/l), sông Hàm Luông (25,5-28,8 g/l), sông Hậu (23,7 g/l)…

Bảng 2: Độ mặn lớn nhất (g/l) đến ngày 29/02/2020 tại các trạm ở ĐBSCL

TT

Trạm

Sông

Tỉnh

Độ mặn cao nhất (g/l)

So với cùng kỳ 2016 (g/l)

1

Cầu Nổi

Vàm Cỏ

Long An

18,4

< 1,3

2

Bến Lức

Vàm Cỏ Đông

Long An

7,9

< 1,8

3

Tân An

Vàm Cỏ Tây

Long An

8,1

Xấp xỉ

4

Hòa Bình

Cửa Tiểu

Tiền Giang

9,6

< 4,0

5

An Định

Tiền

Tiền Giang

5,9

> 1,9

6

Mỹ Tho

Tiền

Tiền Giang

5,7

> 3,1

7

An Thuận

Hàm Luông

Bến Tre

28,8

> 0,4

8

Sơn Đốc

Hàm Luông

Bến Tre

25,5

< 1,9

9

Trà Vinh

Cổ Chiên

Trà Vinh

7,8

< 6,8

10

Cầu Quan

Hậu

Trà Vinh

9,2

< 2,3

11

Đại Ngãi

Hậu

Sóc Trăng

8,9

< 4,8

12

Trần Đề

Hậu

Sóc Trăng

23,7

< 3,6

Nguồn: Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam (2020)

Xâm nhập mùa khô năm 2019-2020 vào sâu đất liền hơn so với mùa khô 2015-2016. Khu vực sông Vàm Cỏ Tây có chiều sâu xâm nhập mặn lên tới 135 km vào mùa khô năm 2019-2020 (Bảng 3).

Bảng 3: So sánh chiều sâu xâm nhập mặn lớn nhất năm 2015-2016 và 2019-2020 (km)

2015-2016

2019-2020

TBNN

Vàm Cỏ Đông

115

94

75

Vàm Cỏ Tây

126

135

78

Cửa Tiểu

70

90

38

Hàm Luông

73

78

43

Cổ Chiên

65

68

44

Hậu

60

65

41

Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2020)

Trong những năm gần đây, xâm nhập mặn vẫn tiếp tục xảy ra hàng năm tại ĐBSCL nhưng không nghiêm trọng như 2 đợt hạn mặn kỷ lục năm 2015-2016 và 2019-2020. Mùa khô 2023-2024, ảnh hưởng của hiện tượng El Nino khiến khu vực ĐBSCL hầu như không mưa (hụt chuẩn từ 60-90%), nắng kéo dài làm nước mặt tích trữ bốc hơi, lưu lượng nước thượng nguồn chảy về thấp hơn TBNN, kết hợp với thời kỳ triều cường đã đẩy mặn sâu vào nội đồng. Chỉ trong 2 tháng (2-3/2024) đã diễn ra 3 đợt xâm nhập mặn tăng cao gây ảnh hưởng đến dân sinh và sản xuất nông nghiệp. Các đợt xâm nhập mặn sâu nhất với ranh mặn 4‰, 1‰ xâm nhập vào sâu 40-66 km, thậm chí tại một số tỉnh như Tiền Giang và Bến Tre vào sâu 70-76 km. Đặc biệt tại khu vực Bến Tre và sông Cổ Chiên đã xâm nhập mặn sâu hơn năm 2016.

Ảnh hưởng của xâm nhập mặn đến phát triển nông nghiệp tiểu vùng ven biển ĐBSCL

Xâm nhập mặn gây ra những ảnh hưởng nghiệm trọng đến sản xuất nông nghiệp vùng ĐBSCL nói chung và tiểu vùng ven biển ĐBSCL nói riêng. Năm 2016, ảnh hưởng của xâm nhập mặn đến sản xuất nông nghiệp đã khiến tăng trưởng ngành NLTS tại các tỉnh tiểu vùng ven biển đều bị sụt giảm, trong đó hai tỉnh Bến Tre và Trà Vinh tăng trưởng âm, lần lượt là -0,2% và -9,9%. Năm 2020, mức độ ảnh hưởng của xâm nhập mặn nghiêm trọng hơn, khiến ngành NLTS của 4/5 tỉnh trong tiểu vùng ven biển ĐBSCL tăng trưởng âm; trong đó nghiêm trọng nhất là Bến Tre với tăng trưởng -4,2% (Bảng 4).

Bảng 4: Tăng trưởng ngành NLTS các tỉnh tiểu vùng ven biển ĐBSCL giai đoạn 2015-2024

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

2022

2023

2024

Long An

3,4

0,6

0,9

3,8

3,8

2,6

3,8

1,3

4,1

3,6

Tiền Giang

8,0

3,5

3,3

4,3

2,5

-2,3

0,6

3,5

4,1

4,0

Bến Tre

3,3

-0,2

7,8

5,5

2,8

-4,2

5,2

2,1

2,5

2,1

Trà Vinh

6,1

-9,9

6,9

7,1

2,4

-2,4

5,1

4,0

3,0

4,2

Sóc Trăng

2,3

0,9

3,3

5,6

4,5

-0,4

1,1

4,3

2,6

5,1

Nguồn: Tổng hợp từ Cục Thống kê các tỉnh tiểu vùng ven biển ĐBSCL

Xâm nhập mặn thời kỳ 2015-2016 đã khiến 13 địa phương vùng ĐBSCL bị ảnh hưởng, trong đó 9/13 tỉnh bị ảnh hưởng nghiêm trọng, khiến hơn 215 nghìn ha lúa và gần 70 nghìn ha thủy sản bị ảnh hưởng (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2016). Bến Tre là một trong 3 tỉnh có diện tích trồng lúa bị thiệt hại nhiều nhất trong cả vùng ĐBSCL với diện tích bị ảnh hưởng là 13.844 ha, chiếm 30,6% tổng diện tích gieo trồng toàn tỉnh. Trà Vinh là tỉnh xếp thứ hai trong tiểu vùng ven biển có tỷ lệ lúa nước bị thiệt hại so với tổng diện tích trồng lúa cao, 12,5%.

Xâm nhập mặn năm 2019-2020 đã ảnh hưởng đến 10/13 tỉnh ĐBSCL. Phạm vi ảnh hưởng của ranh mặn 4g/l là 1.688 nghìn ha, chiếm 42,5% diện tích tự nhiên toàn vùng. Tính riêng tiểu vùng ven biển, lúa tiếp tục là cây trồng bị thiệt hại nặng nề nhất, đặc biệt ở các tỉnh Trà Vinh (14.300 ha lúa bị thiệt hại), Tiền Giang (4.500 ha lúa), Sóc Trăng (4.100 ha). Long An và Tiền Giang là hai tỉnh bị thiệt hại lớn về diện tích cây ăn quả với lần lượt 2.397 ha và 2.297 ha.

ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP

Thời gian qua, các địa phương trong tiểu vùng đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp ứng phó với xâm nhập mặn như điều chỉnh thời vụ sản xuất, vận hành hệ thống thủy lợi kiểm soát mặn, hỗ trợ các thiết bị, dụng cụ trữ nước cho người dân, mở rộng tuyến ống cấp nước, bổ sung giếng, sử dụng thiết bị lọc mặn…, từ đó giúp giảm thiểu thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp và đời sống sinh hoạt của người dân tiểu vùng ven biển ĐBSCL. Các giải pháp bao gồm cả công trình và phi công trình vẫn cho thấy những hiệu quả trong ứng phó với xâm nhập mặn tại ĐBSCL. Trong thời gian tới, cần tiếp tục phối hợp triển khai hai nhóm giải pháp này. Cụ thể:

Đối với nhóm giải pháp công trình, cần ưu tiên nguồn lực đầu tư sửa chữa, phục hồi các công trình thủy lợi, công trình cấp nước sinh hoạt tập trung; đẩy nhanh tiến độ các dự án thủy lợi phòng, chống xâm nhập mặn, bảo đảm cung cấp nguồn nước cho sinh hoạt, phục vụ sản xuất; vận hành hiệu quả các hệ thống, công trình thủy lợi ngăn mặn; nghiên cứu, triển khai các phương án xây hồ chứa, các giải pháp tích trữ nước liên vùng, liên tỉnh với quy mô phù hợp với quy hoạch tài nguyên nước, quy hoạch vùng ĐBSCL và quy hoạch thủy lợi để tăng cường khả năng trữ lũ, giữ nước ngọt, điều tiết nguồn nước; khuyến khích người dân chủ động tích nước theo quy mô hộ gia đình, tại các mương, vườn.

Đối với nhóm giải pháp phi công trình, cần tiếp tục hoàn thiện cơ sở dữ liệu thủy văn toàn vùng; tăng cường công tác cảnh báo, dự báo để địa phương và người dân chủ động phòng, chống thiên tai; hiện đại hóa công tác giám sát, dự báo chuyên ngành phục vụ cho công tác điều hành mùa vụ; tăng cường công tác kiểm soát nguồn nước, theo dõi thường xuyên các vấn đề nước xuyên biên giới trên lưu vực; tuyên truyền, vận động người dân sử dụng nguồn nước hợp lý, tránh lãng phí nước ngọt; chuyển đổi mùa vụ và cơ cấu cây trồng nhằm hạn chế thiệt hại do xâm nhập mặn gây ra; thay đổi, điều chỉnh các mô hình sản xuất theo hướng ít sử dụng nước ngọt, phù hợp với điều kiện tự nhiên./.

*.Bài báo là sản phẩm khoa học của Đề tài Nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ cấp quốc gia: “Sử dụng mô hình cân bằng tổng thể khả tính đánh giá tác động của hạn hán – xâm nhập mặn tới phát triển kinh tế vùng Đồng bằng Sông Cửu Long”, mã số ĐTĐLCN-38/22.

Tài liệu tham khảo

1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2025). Tài liệu Hội nghị Hội đồng điều phối vùng ĐBSCL lần thứ năm.

2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2016). Báo cáo tóm tắt về hạn hán và xâm nhập mặn, tác động và kế hoạch thích ứng giai đoạn 2016-2020.

3. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2020). Báo cáo “Tổng kết công tác chỉ đạo, điều hành phòng, chống hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn mùa khô năm 2019-2020; Dự báo tình hình nguồn nước mùa khô năm 2020 -2021 và giải pháp phòng, chống hạn hán, xâm nhập mặn, bảo đảm sản xuất nông nghiệp, dân sinh vùng ĐBSCL”.

4. Cục Thống kê tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh và Sóc Trăng (2016-2024). Niên giám thống kê các năm từ 2015 đến 2023, Nxb Thống kê.

5. Cục Thống kê tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh và Sóc Trăng (2024). Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng 12 và năm 2024.

6. Eslami Sepehr và cộng sự (2019). Tidal amplifcation and salt intrusion in the Mekong Delta driven by anthropogenic sediment starvation, Sci. Rep., 9(1).

7. Lê Hữu Thuần (2011). Nghiên cứu cơ sở khoa học xác định nguyên nhân, đề xuất giải pháp ứng phó với xâm nhập mặn trong điều kiện biến đổi khí hậu ở vùng ĐBSCL, Trung tâm Thẩm định và Tư vấn tài nguyên nước.

8. Viện Quy hoạch thủy lợi miền Nam (2016). Báo cáo tham luận tại Hội nghị ứng phó với xâm nhập mặn mùa khô 2016.

9. Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam (2016). Dự báo nguồn nước, xâm nhập mặn vùng ĐBSCL và đề xuất các giải pháp chống hạn.

10. Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam (2020). Báo cáo tổng hợp tình hình hạn hán, xâm nhập mặn khu vực miền Nam 2019-2020.

Ngày nhận bài: 25/4/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 12/6/2025; Ngày duyệt đăng: 20/6/2025