Các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ chuyển đổi số của doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Hà Nội
TS. Dương Nguyễn Thanh Thủy
Bộ môn Kinh tế học, Khoa Kinh tế - Trường Đại học Thương mại
Email: duongthuy91@tmu.edu.vn
Tóm tắt
Thông qua kết quả khảo sát được thu thập từ 221 doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) tại Hà Nội, nghiên cứu nhằm phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến Mức độ chuyển đổi số của DNNVV. Kết quả nghiên cứu cho thấy, có 3 nhân tố có tác động tích cực đến Mức độ chuyển đổi số của DNNVV, được sắp xếp theo thứ tự giảm dần như sau: Năng lực đổi mới và sáng tạo kinh doanh; Chính sách quản lý nhà nước; Năng lực lãnh đạo và quản trị kinh doanh. Trong khi đó, Rủi ro cảm nhận kinh doanh có tác động tiêu cực đến Mức độ chuyển đổi số của DNNVV. Từ đó, tác giả đề xuất một số kiến nghị, nhằm tăng cường mức độ chuyển đổi số của DNNVV tại Việt Nam.
Từ khóa: mức độ chuyển đổi số, năng lực đổi mới và sáng tạo kinh doanh, năng lực lãnh đạo và quản trị kinh doanh, doanh nghiệp nhỏ và vừa
Summary
Through surveying 221 small and medium-sized enterprises in Hanoi, the study aims to analyze the factors affecting the level of digital transformation of small and medium-sized enterprises. The research results show that 3 factors positively impact the level of digital transformation of small and medium-sized enterprises, arranged in descending order as follows: Business innovation and creativity capacity; State management policy; Leadership, and business administration capacity. Meanwhile, the Perceived business risk negatively impacts the level of digital transformation of small and medium-sized enterprises. From there, the author proposes several recommendations to enhance the level of digital transformation of small and medium-sized enterprises in Vietnam.
Keywords: level of digital transformation, business innovation and creativity capacity, leadership and business administration capacity, small and medium-sized enterprises
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chuyển đổi số là một trong những mục tiêu được quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp tại Việt Nam. Chính phủ cũng đặc biệt quan tâm đến vấn để chuyển đổi số trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Chuyển đổi số không còn là sân chơi chỉ dành riêng cho các doanh nghiệp lớn, mà các DNNVV cũng có thể tiếp cận và tham gia một cách hiệu quả, tìm kiếm cơ hội kinh doanh, mở rộng thị trường trong nước và quốc tế. Với đặc điểm hạn chế về vốn, công nghệ và nguồn nhân lực, nhưng được bù lại bởi tính linh hoạt, khả năng sáng tạo cao và không ngại thử thách, các DNNVV - chiếm đến 98% số lượng doanh nghiệp của Việt Nam và đóng góp khoảng 50% GDP, đang tích cực và chủ động trong quá trình chuyển đối số. Tuy nhiên, trên thực tế, các DNNVV còn e ngại, bị động trước xu thế này. Lãnh đạo của nhiều DNNVV vẫn còn thiếu hiểu biết về chuyển đổi số (Tống Quang Huy, 2021). Mặt khác, do hạn chế về nguồn lực, nên các DNNVV chưa dám bước ra khỏi vùng an toàn của mình để thay đổi, hội nhập với xu thế chung của thị trường. Về mặt công nghệ, Việt Nam hiện nay vẫn chưa làm chủ được các hệ thống nền tảng cơ bản, cốt lõi của chuyển đổi số nên vẫn phụ thuộc vào các công nghệ có sẵn trên thế giới (Phạm Việt Thắng, 2020). Trong khi đó, mức độ tự động hóa của các DNNVV tại nước ta chưa cao, nguồn nhân lực còn thiếu và yếu, chưa đáp ứng được nhu cầu triển khai chuyển đổi số. Khó khăn cụ thể khiến các DNNVV chưa thực sự mặn mà với chuyển đổi số là do thiếu vốn đầu tư vào nhân lực, kết cấu hạ tầng và công nghệ. Hầu như các DNNVV hiện nay chỉ đầu tư vào điện toán đám mây do không yêu cầu nhiều về vốn và hết cấu hạ tầng công nghệ thông tin (Đặng Thị Huyền Anh, 2021). Vì vậy, việc nghiên cứu ảnh hưởng của chính sách quản lý nhà nước, năng lực đổi mới và sáng tạo kinh doanh , năng lực lãnh đạo và quản trị kinh doanh và rủi ro cảm nhận đến mức độ chuyển đổi số của DNNVV là rất cần thiết, nhằm tăng cường mức độ chuyển đổi số của DNNVV tại Việt Nam.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Cơ sở lý thuyết
Từ trước đến nay, mức độ chuyển đổi số, hay cụ thể là mức độ hoàn thiện chuyển đổi số đã được các nhóm tác giả nước ngoài định nghĩa theo nhiều khái niệm khác nhau. Bititci và cộng sự (2015) đưa ra định nghĩa, mức độ chuyển đổi số là khả năng biến đổi linh hoạt với những thay đổi từ môi trường xung quanh thông qua thực hành quản lý. Pedrini và Frederico (2018) cho rằng, mức độ chuyển đổi số của một doanh nghiệp phản ánh mức độ phù hợp của các thực hành quản lý của doanh nghiệp với các mục tiêu chiến lược đã được đề ra và nhằm mục đích ứng phó với những thay đổi của môi trường. Rosemann và De Bruin (2005) lại chỉ ra rằng, mức độ chuyển đổi số là thước đo đánh giá năng lực thích ứng về kỹ thuật số của một doanh nghiệp khi gặp phải một lĩnh vực sản xuất nhất định.
Trong thời gian gần đây, các tiêu chí và mô hình đánh giá mức độ chuyển đổi số trong doanh nghiệp đã thu hút được sự quan tâm của các học giả cũng như của chính phủ các nước. OECD (2022) xây dựng bộ tiêu chí đánh giá mức độ chuyển đổi số theo 5 mức: mới bắt đầu, tiến triển, hoàn thành, đi đầu và kỳ vọng. Áp dụng trong quản lý thuế, bộ tiêu chí được chi tiết hóa theo khung 6 trụ cột: nhân dạng số, tiếp cận dịch vụ thuế, quản trị và tiêu chuẩn hóa dữ liệu, quản lý và áp dụng quy định thuế, kiến thức mới và khung quản trị.
Tại Việt Nam, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Quyết định số 1970/QĐ-BTTTT, ngày 13/12/2021 phê duyệt Đề án xác định chỉ số đánh giá mức độ chuyển đổi số trong doanh nghiệp và hỗ trợ thúc đẩy doanh nghiệp chuyển đổi số. Theo đó, Bộ chỉ số đánh giá mức độ chuyển đổi số trong doanh nghiệp được tổ chức gồm 6 trụ cột: (1) Trải nghiệm số cho khách hàng, (2) Chiến lược, (3) Hạ tầng và công nghệ số, (4) Vận hành, (5) Chuyển đổi số văn hóa doanh nghiệp, (6) Dữ liệu và tài sản thông tin. Trong mỗi trụ cột có các chỉ số thành phần, trong mỗi chỉ số thành phần có các tiêu chí.
Đặc biệt, Quyết định số 1970/QĐ-BTTTT chi tiết hóa Bộ tiêu chí đối với các loại hình doanh nghiệp khác nhau, cụ thể như sau: Đối với DNNVV, bộ chỉ số có cấu trúc 6 trụ cột như trên, với tổng số gồm 10 chỉ số thành phần và 60 tiêu chí cụ thể; Đối với doanh nghiệp lớn, bộ chỉ số có cấu trúc 6 trụ cột như trên, với tổng số gồm 25 chỉ số thành phần và 139 tiêu chí cụ thể; Đối với tập đoàn, tổng công ty, bộ chỉ số cũng có cấu trúc 6 trụ cột như trên, được tổng hợp trên cơ sở kết quả đánh giá mức độ chuyển đổi số của các đơn vị thành viên nhân với trọng số thích hợp. Chi tiết cấu trúc của Chỉ số đánh giá mức độ chuyển đổi số tập đoàn, tổng công ty tương tự như cấu trúc của Chỉ số đánh giá mức độ chuyển đổi số doanh nghiệp lớn.
Như vậy, có thể thấy, Bộ tiêu chí theo Quyết định số 1970/QĐ-BTTTT là bộ tiêu chí hoàn chỉnh nhất, đồng thời lại đáp ứng được các đặc thù phù hợp với các doanh nghiệp tại Việt Nam và có tính pháp lý. Do đó, Bộ tiêu chí này, đặc biệt đã chi tiết hóa đối với DNNVV, được lựa chọn áp dụng trong bài viết này để đánh giá mức độ chuyển đổi số trong DNNVV trên địa bàn Hà Nội.
Đề xuất mô hình nghiên cứu
Để xác lập mô hình nghiên cứu lý thuyết, trước tiên cần xác định các tiêu chí mức độ chuyển đổi số của DNNVV. Tác giả sử dụng tiêu chí Bộ tiêu chí theo Quyết định số 1970/QĐ-BTTTT của Bộ Thông tin và Truyền thông. Mức độ chuyển đổi số của DNNVV được đánh giá theo 6 trụ cột (pillars) gồm: (1) Trải nghiệm số cho khách hàng, (2) Chiến lược, (3) Hạ tầng và công nghệ số, (4) Vận hành, (5) Chuyển đổi số văn hóa doanh nghiệp, (6) Dữ liệu và tài sản thông tin. Mức độ chuyển đổi số tổng thể của DNNVV được tính bằng tổng số điểm của các trụ cột. Cụ thể, mô hình nghiên cứu đề xuất (Bảng 1) gồm có 4 biến quan sát độc lập. Trong đó, 3 biến quan sát độc lập có ảnh hưởng đồng biến đến Mức độ mức độ chuyển đổi số trong DNNVV, đó là: Năng lực đổi mới và sáng tạo kinh doanh; Năng lực lãnh đạo và quản trị kinh doanh; Chính sách quản lý nhà nước hỗ trợ DNNVV. Biến Rủi ro cảm nhận kinh doanh được nhận định có tác động nghich biến đến Mức độ mức độ chuyển đổi số trong DNNVV.
Bảng 1: Mô hình nghiên cứu đề xuất
![]() |
Nguồn: Tác giả đề xuất |
Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu lý luận để xây dựng cơ sở lý luận về các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ chuyển đổi số trong doanh nghiệp nhỏ và vừa, chuyên đề sử dụng phương pháp nghiên cứu lý thuyết bằng việc thu thập và tổng hợp thông tin qua đọc giáo trình, tài liệu nghiên cứu, bài báo khoa học nhằm mục đích tìm chọn những khái niệm và tư tưởng cơ bản xuyên suốt chủ đề nghiên cứu. Sau đó, tác giả thực hiện nghiên cứu định lượng sơ bộ thông qua phỏng vấn trực tiếp 12 chuyên gia tại các tổ chức, trường đại học và 15 lãnh đạo DNNVV tại 3 doanh nghiệp điển hình nêu trên và một số lãnh đạo DNNVV khác trên địa bàn Hà Nội. Dữ liệu sơ cấp được thu thập từ 221 doanh nghiệp có quy mô vừa, nhỏ và siêu nhỏ, đã đăng ký kinh doanh và hoạt động tại Hà Nội. Các doanh nghiệp có số năm hoạt động từ 01-39 năm. Thời gian khảo sát được tiến hành từ tháng 5-12/2023.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Kiểm định thang đo
Độ tin cậy của thang đo được kiểm định dựa trên hệ số Cronbach’s Alpha và phân tích nhân tố khám phá (EFA). Hệ số Cronbach’s Alpha của 6 thang đo đều > 0,6, đảm bảo mức độ tin cậy để sử dụng cho các phân tích tiếp theo. Sau khi loại bỏ các biến quan sát không đủ điều kiện, kết quả phân tích EFA đối với các biến độc lập, phương sai trích đạt 71,1%, các hệ số tải nhân tố đều > 0,5. Phân tích EFA đối với biến phụ thuộc, phương sai trích đạt 75,4%%, các hệ số tải nhân tố đều > 0,5 (Bảng 2 và Bảng 3).
Bảng 2: Kết quả phân tích EFA với các biến độc lập
![]() |
Nguồn: Phân tích từ dữ liệu nghiên cứu |
Bảng 3: Kết quả phân tích EFA với biến phụ thuộc Mức độ chuyển đổi số
![]() |
Nguồn: Phân tích từ dữ liệu nghiên cứu |
Kết quả phân tích thống kê mô tả các thang đo cho thấy, các doanh nghiệp đều đánh giá cao về Chính sách quản lý nhà nước, giá trị trung bình là 3,55 (Bảng 4). Tuy nhiên, Năng lực đổi mới và sáng tạo kinh doanh còn dưới mức trung bình là 2,95. Mức độ chuyển đổi số của DNNVV vẫn trên mức trung bình là 3,38.
Bảng 4: Kết quả kiểm định độ tin cậy và thống kê mô tả thang đo
![]() |
Nguồn: Phân tích từ dữ liệu nghiên cứu |
Phân tích hồi quy
Kết quả phân tích hồi quy cho thấy, R2 = 0,728, nghĩa là các yếu tố ảnh hưởng được xem xét trong mô hình giải thích được 72,8% sự biến thiên trong mức độ chuyển đổi số của DNNVV. Dựa trên hệ số hồi quy ở Bảng 5, Năng lực đổi mới và sáng tạo kinh doanh có tác động lớn nhất đến Mức độ chuyển đổi số của doanh nghiệp, tiếp theo là Chính sách quản lý nhà nước, cuối cùng là Năng lực lãnh đạo và quản trị kinh doanh. Rủi ro cảm nhận kinh doanh có tác động tiêu cực đến Mức độ chuyển đổi số của DNNVV. Do vậy, cả 4 giả thuyết đều được chấp nhận.
Bảng 5: Kết quả kiểm định giả thuyết nghiên cứu
![]() |
Nguồn: Phân tích từ dữ liệu nghiên cứu |
KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Kết luận
Kết quả nghiên cứu cho thấy, có 3 nhân tố có tác động tích cực đến Mức độ chuyển đổi số của DNNVV, được sắp xếp theo thứ tự giảm dần như sau: Năng lực đổi mới và sáng tạo kinh doanh; Chính sách quản lý nhà nước; Năng lực lãnh đạo và quản trị kinh doanh. Trong khi đó, Rủi ro cảm nhận kinh doanh có tác động tiêu cực đến Mức độ chuyển đổi số của DNNVV.
Một số kiến nghị
Tác giả đề xuất một số kiến nghị giải pháp chính sách nhằm nâng cao mức độ chuyển đổi số đối với DNNVV như sau:
Đối với Nhà nước nói chung và TP. Hà Nội nói riêng
Một là, xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật để tạo môi trường và không gian thuận lợi cho đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp và phát triển kinh tế số. Đặc biệt, cần cải cách thủ tục hành chính và tạo cơ chế, chính sách điều chỉnh hoạt động của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp phù hợp với nền kinh tế số.
Thứ nhất, để hỗ trợ thúc đẩy quá trình chuyển đổi số của các DNNVV Hà Nội, cần triển khai, hoàn thiện các chính sách liên quan đến thuế. Các giải pháp thuế được áp dụng bên cạnh việc đảm bảo gia tăng của ngân sách cho Thành phố, cần phải được định hướng theo hướng tập trung đến các đặc điểm đặc thù của các DNNVV, để các DNNVV có thể tiếp cận và hưởng các lợi ích, ưu đãi đến từ các chính sách liên quan đến thuế.
Thứ hai, TP. Hà Nội cần xây dựng, thiết lập các mô hình chuyên môn hóa, hình thành các mạng lưới tư vấn viên nhằm hỗ trợ tư vấn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là đối với các DNNVV. Thành phố cần phải chủ trì, phối hợp với các sở, ngành liên quan nhằm xây dựng và hình thành một hệ thống cơ sở dữ liệu, mạng lưới thông tin hỗ trợ các doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố, liên tục cập nhật, công khai các dự kiện liên quan đến mạng lưới chuyên gia, để các DNNVV có thể dễ dàng và nhanh chóng tiếp cận với các thông tin về các văn bản pháp luật, các chính sách và quy định mới, tiếp cận các ưu đãi về thuế đối với quy trình chuyển đối số, các chương trình hỗ trợ nghiên cứu và phát triển chuyển đổi số và các thông tin khác liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ ba, Sở Khoa học và Công nghệ; Sở Kế hoạch và Đầu tư; Sở Thông tin và Truyền thông của Hà Nội cũng cần có những biện pháp hỗ trợ các DNNVV về công nghệ, kỹ thuật phục vụ cho quá trình chuyển đổi số và cơ sở kỹ thuật.
Thứ tư, quá trình chuyển đổi số cũng đòi hỏi một nguồn nhân lực ổn định và chất lượng, vì thế, cần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nguồn lao động cho nền kinh tế số.
Về phía các DNNVV
Một là, bên cạnh các nhu cầu về vốn, để thực hiện các quy trình chuyển đổi số, các doanh nghiệp cũng cần có các hỗ trợ về mặt bằng sản xuất, chuyển đổi.
Hai là, các DNNVV trên địa bàn TP. Hà Nội, hay các nhà quản trị cần phải chuẩn bị sẵn sàng cho sự thay đổi sẽ diễn ra liên tục và khó khăn trong quá trình chuyển đổi số./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Thông tin và Truyền thông (2021), Quyết định số 1970/QĐ-BTTTT, ngày 13/12/2021 phê duyệt Đề án xác định chỉ số đánh giá mức độ chuyển đổi số trong doanh nghiệp và hỗ trợ thúc đẩy doanh nghiệp chuyển đổi số.
2. Bititci, U.S., Garengo, P., Ates, A., Nudurupati, S.S. (2015), Value of maturity models in performance measurement, Int. J. Prod. Res, 53, 3062-3085.
3. Đặng Thị Huyền Anh (2021), Chính sách thúc đẩy chuyển đổi số nhằm phát triển kinh tế số tại Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 11, 7-10.
4. OECD (2022), Digital Transformation Maturity Model, OECD, Paris.
5. Phạm Việt Thắng (2020), Doanh nghiệp đổi mới sáng tạo trong thời kỳ chuyển đổi số, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 295, 78-82.
6. Pedrini, C.N., Frederico, G.F. (2018), Information technology maturity evaluation in a large Brazilian cosmetics industry, Int. J. Bus. Adm, 9(15).
7. Ramos M. (2020), World Economic Forum, retrieved from https://www.weforum.org/agenda/2020/07/.
8. Rosemann, M., de Bruin, T. (2005), Towards a business process management maturity model, In: ECIS 2005 Proceedings, vol. 37.
9. Tống Quang Huy (2021), Các vấn đề cần lưu ý khi chuyển đổi số đối với các tổ chức, doanh nghiệp, Tạp chí Ngân hàng (Chuyên đề Công nghệ và Ngân hàng số), số 4, 19-21.
Ngày nhận bài: 12/12/2024; Ngày phản biện: 17/12/2024; Ngày duyệt đăng: 20/01/2025 |
Bình luận