Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định làm việc bán thời gian của sinh viên Trường Đại học Tây Đô
ThS. Huỳnh Thị Kiều Thu
Trường Đại học Tây Đô
Email: htkthu@tdu.edu.vn
Tóm tắt
Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định làm việc bán thời gian của sinh viên Trường Đại học Tây Đô, với mô hình gồm 5 nhân tố: Nhu cầu tài chính, Thời gian rảnh, Chuẩn chủ quan, Kinh nghiệm - kỹ năng và Quan hệ xã hội, dựa trên 24 biến quan sát. Phân tích dữ liệu từ 295 SV bằng Cronbach’s Alpha, EFA và hồi quy tuyến tính cho thấy Thời gian rảnh và Quan hệ xã hội là 2 yếu tố ảnh hưởng mạnh nhất. Kết quả nghiên cứu góp phần đưa ra các hàm ý quản trị hỗ trợ sinh viên cân bằng giữa việc học và làm thêm.
Từ khóa: Đại học Tây Đô, quyết định làm việc bán thời gian, sinh viên
Summary
This study was conducted to identify the factors influencing students' decisions to engage in part-time work at Tay Do University. The research model includes five factors: Financial needs, Free time, Subjective norms, Experience and skills, and Social relationships, based on 24 observed variables. Data from 295 students were analyzed using Cronbach’s Alpha, Exploratory Factor Analysis (EFA), and linear regression. The results indicate that Free time and Social relationships are the two most influential factors. The findings provide managerial implications to support students in balancing academic responsibilities and part-time employment.
Keywords: Tay Do University, part-time job decision, students
GIỚI THIỆU
Việc sinh viên (SV) làm thêm đã trở thành một hiện tượng phổ biến trong xã hội hiện nay. Nhiều SV chọn làm việc bán thời gian để kiếm thêm thu nhập và trải nghiệm kinh nghiệm làm việc. Tuy nhiên, không phải tất cả SV đều có ý định làm thêm. Vậy, điều gì ảnh hưởng đến quyết định làm việc bán thời gian của SV? Nhiều nghiên cứu đã khảo sát các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định làm việc bán thời gian của SV. Các nghiên cứu này đã chỉ ra rằng, quyết định làm việc bán thời gian của SV chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, trong đó yếu tố kinh tế thường được xem là động lực chính. Điển hình, nghiên cứu của Wang và Chen (2017) đã khẳng định việc kiếm thêm thu nhập và giảm gánh nặng tài chính cho gia đình là những lý do hàng đầu khiến SV làm việc bán thời gian. Tuy nhiên, các nghiên cứu khác như của Hà (2023) lại nhấn mạnh vai trò quan trọng của các yếu tố chủ quan như Chuẩn chủ quan và Thái độ cá nhân trong việc thúc đẩy SV làm thêm. Điều này cho thấy, quyết định làm việc bán thời gian của SV là kết quả của sự tương tác giữa các yếu tố khách quan và chủ quan. Những nghiên cứu này cung cấp góc nhìn sâu sắc về các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định làm thêm của SV nhưng điều này vẫn chưa được kiểm chứng đối với địa bàn nghiên cứu tại Trường Đại học Tây Đô. Vì vậy, câu hỏi đặt ra là các nhân tố nào có ảnh hưởng đến quyết định làm việc bán thời gian của SV Trường Đại học Tây Đô? Để làm rõ câu hỏi trên, tác giả tiến hành nghiên cứu này.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
Lý thuyết về quyết định làm thêm
Việc SV quyết định làm việc bán thời gian đã trở thành chủ đề được nghiên cứu nhiều trong những năm gần đây. Các nhà nghiên cứu đã vận dụng nhiều lý thuyết khác nhau, trong đó lý thuyết nhu cầu của Maslow (1943) và lý thuyết về việc làm thêm của Thurman và Trah (1990).
Theo Maslow (1943), nhu cầu của con người được sắp xếp theo một hệ thống cấp bậc. Khi áp dụng vào quyết định làm việc bán thời gian, có thể thấy SV thường lựa chọn công việc để đáp ứng các nhu cầu cơ bản như sinh hoạt phí (nhu cầu sinh lý), tích lũy cho tương lai (nhu cầu an toàn); đồng thời thỏa mãn nhu cầu giao tiếp, được công nhận và tự khẳng định bản thân.
Trong khi đó, lý thuyết của Thurman và Trah (1990) giúp giải thích tại sao các doanh nghiệp lại ưa chuộng SV làm thêm. Việc sử dụng lao động bán thời gian giúp doanh nghiệp linh hoạt hơn trong việc điều chỉnh nhân sự theo nhu cầu và tiết kiệm chi phí. Đối với SV, làm thêm không chỉ là nguồn thu nhập phụ mà còn là cơ hội để trải nghiệm thực tế, khám phá khả năng bản thân và mở rộng mối quan hệ xã hội.
Tổng quan nghiên cứu
Nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước đã tập trung khám phá các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định làm thêm của SV. Wang và Chen (2017) cho rằng, động cơ làm thêm chủ yếu là để tăng thu nhập, giảm gánh nặng tài chính và tận dụng thời gian rảnh, nhưng cũng cảnh báo về những ảnh hưởng tiêu cực đến học tập. Tại Việt Nam, Hà (2023) xác định 4 yếu tố chính thúc đẩy SV làm thêm, gồm: chuẩn chủ quan, kinh nghiệm - kỹ năng, thu nhập và thái độ cá nhân, trong đó chuẩn chủ quan là yếu tố mạnh nhất.
Hiền và cộng sự (2021) làm rõ thêm rằng SV chọn công việc như tái xế xe công nghệ không chỉ vì tài chính mà còn để phát triển kỹ năng và mở rộng quan hệ. Tường và cộng sự (2022) nhấn mạnh 2 yếu tố chính là nhu cầu kinh tế và quan hệ kiến thức. Phượng & Thúy (2020) cho thấy quyết định làm thêm còn gắn với mong muốn tích lũy kinh nghiệm và phát triển cá nhân, trong khi Văn và cộng sự (2022) bổ sung rằng các yếu tố như kết quả học tập, nhu cầu chi tiêu, kỹ năng sống và thời gian rảnh cũng có ảnh hưởng đáng kể.
Về tổng thể, các nghiên cứu đều thống nhất rằng quyết định làm thêm của SV bị chi phối bởi tổ hợp các yếu tố tài chính, cá nhân và xã hội, từ đó nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng các chính sách hỗ trợ phù hợp từ phía nhà trường và doanh nghiệp.
Mô hình nghiên cứu
Mô hình nghiên cứu gồm 5 nhân tố ảnh hưởng đến quyết định làm việc bán thời gian của SV, gồm: Nhu cầu tài chính, Thời gian rảnh, Chuẩn chủ quan, Kinh nghiệm - kỹ năng và Quan hệ xã hội, với 25 biến quan sát. Quyết định làm việc bán thời gian được đo bằng 5 biến quan sát trên thang Likert 5 điểm.
Hình 1: Mô hình nghiên cứu đề xuất
![]() |
| Nguồn: Đề xuất của tác giả |
Nghiên cứu sử dụng phương pháp chọn mẫu thuận tiện, thu thập dữ liệu từ SV Trường Đại học Tây Đô thông qua bảng hỏi gồm 30 biến quan sát. Cỡ mẫu được xác định theo Hair et al. (1998), số lượng tối thiểu là 150 để đảm bảo độ tin cậy cho phân tích EFA và hồi quy tuyến tính.
Dữ liệu được xử lý bằng SPSS 23.0. Các thang đo được kiểm định độ tin cậy và tính hợp lệ qua hệ số Cronbach’s Alpha và phân tích nhân tố khám phá (EFA). Sau đó, mô hình hồi quy tuyến tính được áp dụng để kiểm định mối quan hệ giữa các biến độc lập và quyết định làm việc bán thời gian của SV.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Kiểm định độ tin cậy của thang đo bằng hệ số Cronbach's Alpha
Qua phân tích Cronbach’s Alpha, phần lớn các biến quan sát trong năm nhân tố độc lập và biến phụ thuộc có hệ số tương quan biến tổng lớn hơn 0,30 và hệ số Cronbach's Alpha đều lớn hơn 0,60. Tuy nhiên, kết quả kiểm định cũng cho thấy một biến quan sát bị loại ra (QD1 có hệ số tương quan biến tổng 0,215 nhỏ hơn 0,30 và giá trị Cronbach's Alpha nếu loại biến là 0,759 > 0,698). Tác giả quyết định loại biến quan sát QD1; các biến quan sát còn lại đều được giữ lại cho phân tích tiếp theo, thể hiện qua Bảng 1.
Bảng 1: Kết quả Cronbach's Alpha các thang đo
![]() |
| Nguồn: Nghiên cứu của tác giả |
Phân tích nhân tố khám phá
Nghiên cứu sử dụng phép xoay nhân tố theo phương pháp Varimax với điểm trung bình của các nhóm nhân tố chung được tính theo phương pháp factor score. Kết quả ma trận xoay của các biến độc lập (Bảng 2) cho thấy, 25 biến quan sát vẫn được gom thành 5 nhân tố như ở kiểm định Cronbach’s Alpha, các biến quan sát đều có hệ số tải nhân tố Factor Loading lớn hơn 0,50, với hệ số KMO có giá trị bằng 0,830 (0,50 <= KMO = 0,830 < 1,00), phân tích nhân tố được chấp nhận với tập dữ liệu nghiên cứu và giá trị Eigenvalues = 2,109 > 1,00 cho thấy sự hội tụ của nhân tố.
Tổng phương sai trích là 70,520 > 50,00%, cho thấy mô hình EFA là phù hợp, cho biết 5 nhân tố này giải thích được 70,52% độ biến thiên của dữ liệu.
Bảng 2: Kết quả phép xoay nhân tố các biến độc lập
| Biến quan sát | Nhân tố | ||||
| 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | |
| CQ2 | 0,905 |
|
|
|
|
| CQ3 | 0,903 |
|
|
|
|
| CQ4 | 0,883 |
|
|
|
|
| CQ1 | 0,869 |
|
|
|
|
| CQ5 | 0,819 |
|
|
|
|
| QH2 |
| 0,840 |
|
|
|
| QH3 |
| 0,817 |
|
|
|
| QH1 |
| 0,807 |
|
|
|
| QH5 |
| 0,796 |
|
|
|
| QH4 |
| 0,693 |
|
|
|
| KN2 |
|
| 0,874 |
|
|
| KN3 |
|
| 0,860 |
|
|
| KN5 |
|
| 0,820 |
|
|
| KN1 |
|
| 0,785 |
|
|
| KN4 |
|
| 0,764 |
|
|
| TG3 |
|
|
| 0,878 |
|
| TG4 |
|
|
| 0,862 |
|
| TG5 |
|
|
| 0,785 |
|
| TG2 |
|
|
| 0,725 |
|
| TG1 |
|
|
| 0,692 |
|
| TC2 |
|
|
|
| 0,892 |
| TC1 |
|
|
|
| 0,883 |
| TC3 |
|
|
|
| 0,837 |
| TC4 |
|
|
|
| 0,621 |
| TC5 |
|
|
|
| 0,565 |
| KMO = 0,830 Eigenvalues = 2,109 Tổng phương sai trích = 70,520 | |||||
Nguồn: Nghiên cứu của tác giả
Kết quả ma trận xoay của thang đo quyết định làm việc bán thời gian của SV cho thấy, 4 biến quan sát được gom thành 1 nhân tố, tất cả các biến quan sát đều có hệ số tải nhân tố Factor Loading lớn hơn 0,50, với hệ số KMO có giá trị bằng 0,731 (0,50 <= KMO = 0,731 < 1,00), phân tích nhân tố được chấp nhận với tập dữ liệu nghiên cứu, và giá trị Eigenvalues = 2,333 > 1,00 cho thấy sự hội tụ của nhân tố. Tổng phương sai trích là 58,315 > 50,00%, cho thấy mô hình EFA là phù hợp.
Phân tích hồi quy tuyến tính
Kiểm định ANOVA cho thấy giá trị F = 90,044 với giá trị Sig. = 0,000 < 0,01, có thể kết luận rằng mô hình đưa ra phù hợp với tập dữ liệu. Hay nói cách khác, các biến độc lập có tương quan tuyến tính với biến phụ thuộc với mức độ tin cậy 99%.
Giá trị R2 hiệu chỉnh = 0,548, như vậy 5 biến độc lập đưa vào ảnh hưởng 54,80% sự thay đổi của biến phụ thuộc. Hệ số Durbin-Watson = 1,508 nằm trong khoảng 1,0 đến 3,0 nên không có hiện tượng tự tương quan giữa các phần dư trong mô hình.
Giá trị độ phóng đại phương sai VIF = 1,000 < 2, có thể kết luận không có hiện tượng đa cộng tuyến trong mô hình.
Bảng 3: Kết quả hồi quy
![]() |
| Nguồn: Nghiên cứu của tác giả |
Trong bảng trên, giá trị Sig. của các biến độc lập có giá trị Sig. < 0,01 nên các biến độc lập này đều có ý nghĩa giải thích cho biến phụ thuộc. Dựa vào độ lớn của hệ số hồi quy chuẩn hóa Beta, thứ tự mức độ tác động từ mạnh nhất tới yếu nhất của các biến độc lập tới biến phụ thuộc QD là: TG > QH > TC > KN. Các biến độc lập có hệ số Beta dương, chứng tỏ có ảnh hưởng thuận chiều đến biến phụ thuộc. Điều này có nghĩa là:
- Nhân tố Thời gian rảnh (β = 0,410), dấu (+): Quan hệ đồng biến. Khi nhân tố này tăng/giảm lên 1 đơn vị thì quyết định làm việc bán thời gian của SV tăng/giảm trung bình 0,410 đơn vị. Đây là nhân tố có ảnh hưởng mạnh nhất đến quyết định làm việc bán thời gian của SV. Phát hiện này phù hợp với nghiên cứu của Phượng & Thúy (2020) khi chỉ ra rằng SV đánh giá nhân tố Thời gian rảnh tác động mạnh nhất đến họ trong quyết định làm việc bán thời gian.
- Nhân tố Quan hệ xã hội (β = 0,402), dấu (+): Quan hệ đồng biến. Khi nhân tố này tăng/giảm lên 1 đơn vị thì quyết định làm việc bán thời gian của SV tăng/giảm trung bình 0,402 đơn vị. Đây là nhân tố có ảnh hưởng mạnh thứ hai đến quyết định làm việc bán thời gian của SV. Kết quả nghiên cứu này cho thấy có sự khác biệt với các nghiên cứu của Hiền và cộng sự (2021) và Tường và cộng sự (2022) về mức độ ảnh hưởng của nhân tố này. Điều này được giải thích bởi SV Trường Đại học Tây Đô quan tâm nhất đến quỹ thời gian dành cho việc học tập, còn các mối quan hệ xã hội ít được chú trọng hơn vì không chỉ làm việc bán thời gian mới xây dựng được nhiều mối quan hệ.
- Nhân tố Nhu cầu tài chính (β = 0,382), dấu (+): Quan hệ đồng biến. Khi nhân tố này tăng/giảm lên 1 đơn vị thì quyết định làm việc bán thời gian của SV tăng/giảm trung bình 0,382 đơn vị. Đây là nhân tố có ảnh hưởng mạnh thứ ba đến quyết định làm việc bán thời gian của SV. Kết quả của nghiên cứu tương ứng với các kết quả của Phượng & Thúy (2020), Hiền và cộng sự (2021), Thủy và cộng sự (2021), Tường và cộng sự (2022) và Hà (2023) khi phát hiện yếu tố tài chính cá nhân có ảnh hưởng tích cực đến quyết định làm việc bán thời gian của SV.
- Nhân tố Kinh nghiệm - kỹ năng (β = 0,281), dấu (+): Quan hệ đồng biến. Khi nhân tố này tăng/giảm lên 1 đơn vị thì quyết định làm việc bán thời gian của SV tăng/giảm trung bình 0,260 đơn vị. Đây là nhân tố có ảnh hưởng yếu nhất đến quyết định làm việc bán thời gian của SV. Kết quả nghiên cứu này cho thấy có sự khác biệt với các nghiên cứu của Hà (2023) về mức độ ảnh hưởng của nhân tố này, trong khi phát hiện của các tác giả này về Kinh nghiệm - kỹ năng có ảnh hưởng khá mạnh đến quyết định làm việc bán thời gian của SV so với các nhân tố khác trong mô hình.
KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý QUẢN TRỊ
Kết luận
Nghiên cứu này đã xác định được 4 nhân tố chính ảnh hưởng đến quyết định làm việc bán thời gian của SV Trường Đại học Tây Đô, bao gồm: Thời gian rảnh, Quan hệ xã hội, Nhu cầu tài chính và Kinh nghiệm - kỹ năng. Trong đó, Thời gian rảnh được xác định là nhân tố có tác động mạnh mẽ nhất, tiếp theo là Quan hệ xã hội, Nhu cầu tài chính và cuối cùng là Kinh nghiệm - kỹ năng. Kết quả này phản ánh sự ưu tiên của SV trong việc cân bằng giữa việc học tập và làm việc; đồng thời nhấn mạnh vai trò của các yếu tố xã hội và tài chính trong quyết định của họ.
Hàm ý quản trị
Dựa trên kết quả nghiên cứu, các hàm ý quản trị sau đây được đề xuất nhằm tối ưu hóa việc làm bán thời gian của SV, mang lại lợi ích cho cả nhà trường và SV:
Thứ nhất, tạo điều kiện linh hoạt về thời gian học tập. Để tối ưu hóa hiệu quả học tập và làm việc của SV, việc tạo điều kiện linh hoạt về thời gian là yếu tố then chốt. Nhà trường cần xây dựng lịch học linh hoạt, cho phép SV chủ động sắp xếp thời gian dựa trên nhu cầu cá nhân. Đồng thời, việc mở rộng các hình thức đào tạo trực tuyến và từ xa sẽ tăng cường tính linh hoạt, giúp SV dễ dàng tiếp cận kiến thức mọi lúc, mọi nơi. Về phía SV, việc lập kế hoạch chi tiết cho học tập, làm việc và các hoạt động khác, kết hợp với việc sử dụng các công cụ và kỹ thuật quản lý thời gian sẽ giúp tối ưu hóa hiệu suất cá nhân.
Thứ hai, xây dựng mạng lưới kết nối việc làm. Việc thiết lập mạng lưới kết nối việc làm hiệu quả là cầu nối quan trọng giữa SV và thị trường lao động. Nhà trường nên chủ động thiết lập quan hệ đối tác với các doanh nghiệp và tổ chức, tạo cơ hội việc làm bán thời gian phù hợp với chuyên ngành đào tạo. Việc tổ chức định kỳ các hội chợ việc làm và hội thảo hướng nghiệp sẽ giúp SV tiếp cận trực tiếp với nhà tuyển dụng và tìm hiểu về nhu cầu của thị trường lao động. Phát triển cổng thông tin việc làm trực tuyến, cung cấp thông tin việc làm và kết nối SV với nhà tuyển dụng, là một giải pháp hữu hiệu trong thời đại công nghệ số.
Thứ ba, kỹ năng mềm đóng vai trò then chốt trong sự thành công của SV sau khi tốt nghiệp. Nhà trường cần chú trọng tổ chức các khóa đào tạo kỹ năng mềm, đồng thời tích hợp các kỹ năng này vào chương trình đào tạo chính khóa. SV cần chủ động tham gia các khóa học, hội thảo và hoạt động tự học để nâng cao kiến thức và kỹ năng. Việc cập nhật thông tin về các kỹ năng mà nhà tuyển dụng đang tìm kiếm cũng là yếu tố quan trọng giúp SV đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động.
Thứ tư, vấn đề tài chính là một trong những rào cản lớn đối với SV, đặc biệt là những SV có hoàn cảnh khó khăn. Việc cung cấp dịch vụ tư vấn tài chính cá nhân sẽ giúp SV quản lý tài chính hiệu quả hơn. Xây dựng các chương trình học bổng và hỗ trợ tài chính là giải pháp thiết thực giúp SV giảm bớt gánh nặng tài chính, tập trung vào học tập và phát triển bản thân.
Những hàm ý quản trị này nhằm mục đích tạo ra một hệ sinh thái hỗ trợ, giúp SV cân bằng giữa việc học tập và làm việc; đồng thời phát triển các kỹ năng cần thiết cho tương lai.
Tài liệu tham khảo:
1. Hair, J. F., Black, W. C., Babin, B. J., Anderson, R. E., & Tatham, R. L., (1998), Multivariate data analysis. Upper Saddle River, NJ: Prentice hall, vol. 5(3), 207-219.
2. Hà, V. T. T. (2023). Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định làm thêm của SV: Nghiên cứu trường hợp cụ thể với SV các trường cao đẳng, đại học trên địa bàn Hà Nội. Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Số 1(59), 160-166.
3. Hiền, Đ. T. T., Long, N. T., & Khánh, P. N. K., (2021). Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định tham gia chạy Grab Bike của SV tại TP.HCM. Journal of Science and Technology-IUH, Số 50, 134-148.
4. Maslow, A. H. (1943). A theory of human motivation. Psychological Review, 50(4), 370-396. https://doi.org/10.1037/h0054346
5. Thurman, J., & Trah, G. (1990). Part-time work in international perspective. International Labour Office.
6. Thủy, N. T. B., Thái, H. V., Thơ, T. T., Hương, P. T. M., Dương, N. T., & Trang, Đ. N. H., (2021). Nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đi làm thêm của SV: Thực nghiệm từ Đại học Vinh. Tạp chí Kế toán và Kiểm toán, số 1+2, 102-108.
7. Tường, V. X., Hiền, T. N. T., Ngía, L. T., Sương, N. T. T., Nguyên, P. T. T., Trinh, N. H. T., Thư, T. T. N. & Thủy, H. N., (2022). Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định làm thêm của SV Trường Đại học Văn Lang. Tạp chí Phát triển và Hội nhập, số 62(72), 130-136.
8. Phượng, N. T., & Thúy, T. T. D., (2020). Những yếu tố ảnh hưởng đến quyết định làm thêm của SV Khoa Kinh tế, Trường Đại học An Giang. Tạp chí Công Thương, số 3, 118-123.
9. Văn, M. T., Anh, N. V., & Huy, H. T. (2022). Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đi làm thêm của SV Trường Đại học Kinh Tế Huế. Tạp chí Khoa học Quản lý và Kinh tế, Trường Đại học Kinh Tế, Đại học Huế, (21).
10. Wang, Y. C. and Chen, C. J., (2017). College Students Part-Time Jobs: Factors and Challenges for Future Careers. In 2017 6th IIAI International Congress on Advanced Applied Informatics (IIAI-AAI), Hamamatsu, Japan, 2017, 1-4.
| Ngày nhận bài: 22/5/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 27/5/2025; Ngày duyệt đăng: 28/5/2025 |




Bình luận