Vũ Thị Mai Chi

vuthimaichi@iuh.edu.vn

Trường Đại học Công nghiệp TP. Hồ Chí Minh

Tóm tắt

Taxi VinFast là một hãng taxi mới đi vào hoạt động tại Việt Nam, là hãng tiên phong với mô hình taxi điện xanh – sạch – hiện đại đem lại nhiều lợi ích cho xã hội. Nghiên cứu nhằm xác định các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định sử dụng dịch vụ đặt xe taxi điện trực tuyến VinFatst của hành khách tại khu vực TP. Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu cho thấy, 6 nhân tố ảnh hưởng bao gồm: (1) Sự hữu ích; (2) Sự tiện lợi; (3) Giá cả hợp lý ; (4) Ảnh hưởng xã hội; (5) Thương hiệu và (6) Công nghệ chuyển đổi số. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất 6 hàm ý quản trị cho các quản trị doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ và gia tăng sự hài lòng của khách hàng.

Từ khoá: Taxi trực tuyến; Xe điện; VinFast; Thương hiệu taxi điện, Sự tiện lợi

Summary

VinFast Taxi is a new taxi company operating in Vietnam, a pioneer with a green - clean - modern electric taxi model that brings many benefits to society. The study aims to identify factors affecting the decision to use VinFatst online electric taxi booking service of passengers in Ho Chi Minh City. The research results show that 6 influencing factors include: (1) Usefulness; (2) Convenience; (3) Reasonable price; (4) Social influence; (5) Brand and (6) Digital transformation technology. On that basis, the author proposes 6 management implications for business administrators to improve service quality and increase customer satisfaction.

Keywords: Online taxi; Electric vehicle; VinFast; Electric taxi brand, Convenience

ĐẶT VẤN ĐỀ

Ngày nay xã hội phát triển, nhu cầu di lại của con người ngày càng nhiều hơn. Vì thế nhiều công ty đã mở rộng dịch vụ taxi vận chuyển hành khách với nhiều ứng dụng công nghệ đặt xe trực tuyến phục vụ cho dịch vụ này. Theo Vietnam Ride Hailing (2024), thị trường gọi xe Việt Nam đạt 0,88 tỷ USD năm 2024 và dự báo tiếp tục tăng mạnh đến năm 2029 do nhu cầu đi lại tăng cao và do một số quy định về luận giao thông đường bộ siết chặt lại. Hiện nay, thị trường gọi xe Việt Nam theo đánh giá của Mordor Intelligence được củng cố ở mức độ vừa phải, với sự tham gia của các công ty, như: Grab Holdings Inc., Xanh SM (Công ty Cổ phần GSM), CTCP Be Group, Go-Việt và FastGo tại Việt Nam. Trong đó, Taxi VinFast (Xanh SM) là thương hiệu dịch vụ đặt xe thuần điện đầu tiên tại Việt Nam, mang đến những trải nghiệm di chuyển khác biệt, bao gồm: dịch vụ taxi tiêu chuẩn Xanh SM Taxi, dịch vụ taxi cao cấp Xanh SM Luxury và dịch vụ di chuyển linh hoạt bằng xe máy điện Xanh SM Bike. Điều này có nghĩa rằng, môi trường cạnh tranh của dịch vụ đặt xe trực tuyến của các công ty ngày càng khốc liệt, đặc biệt là tại TP. Hồ Chí Minh, nơi tập trung dân số đông nhất cả nước và có nhu cầu đi lại vào loại cao nhất. Trong bối cảnh này, việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định sử dụng dịch vụ đặt xe taxi điện trực tuyến của VinFatst tại khu vực TP. Hồ Chí Minh là rất cần thiết để giúp các nhà cung cấp dịch vụ có chiến lược nâng cao chất lượng dịch vụ, đáp ứng nhu cầu đi lại ở các mức độ khác nhau cho hành khách, từ đó gia tăng trải nghiệm và sự hài lòng của khách hàng.

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Cơ sở lý thuyết

Borishade và cộng sự (2021) cho rằng, dịch vụ là bất kỳ hành vi hoặc hành động nào được thực hiện dựa trên sự tiếp xúc giữa hai bên: người cung cấp và người nhận và bản chất của quá trình này là vô hình.

Theo Parasuraman và cộng sự (1988) định nghĩa, dịch vụ là hoạt động tạo ra giá trị sử dụng cho khách hàng thông qua các hành vi hay quá trình cách thức thực hiện công việc nào đó nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu khách hàng. Như vậy, dịch vụ được xem như là mọi hành động và kết quả mà một bên có thể cung cấp cho bên kia và chủ yếu là vô hình và không dẫn đến quyền sở hữu một cái gì đó. Sản phẩm của nó có thể có hay không gắn liền với một sản phẩm vật chất khác.

Hành vi là đặc trưng của việc thể hiện được nhận thấy trong một thời gian dài của con người. Môi trường, các động lực, các thái độ và trạng thái tinh thần, cơ thể vật lý của con người xác định hành vi. Như vậy, hành vi của người tiêu dùng đề cập đến các quá trình người tiêu dùng trải qua và các phản ứng mà họ có đối với các sản phẩm hoặc dịch vụ (Szwacka-Mokrzycka, 2015).

Trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ gọi xe, Seojin Lee và cộng sự (2021) trong nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ gọi xe của du khách thuộc thế hệ Millennials tại Hoa Kỳ và Trung Quốc đã nhấn mạnh vai trò của giá cả và giá trị quan hệ trong quyết định sử dụng dịch vụ của nhóm đối tượng này. Yu Wang và cộng sự (2018) nghiên cứu ảnh hưởng của tác động từ bạn bè và xã hội đến việc sử dụng dịch vụ gọi xe trực tuyến. Sử dụng mô hình ảnh hưởng xã hội đa cấp, nghiên cứu cho thấy rằng, Quyết định sử dụng dịch vụ gọi xe của một cá nhân bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi Hành vi của bạn bè và Mạng lưới xã hội xung quanh. Tại Việt Nam, Nguyễn Thị Khánh Chi (2020) chỉ ra, các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi của khách hàng sử dụng dịch vụ taxi truyền thống tại Việt Nam bao gồm: Chất lượng dịch vụ; Giá cả và sự tiện lợi. Còn theo Phạm Văn Kiên và cộng sự (2021), các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng của khách hàng khi lựa chọn và sử dụng dịch vụ GrabCar, bao gồm: Cải thiện chất lượng dịch vụ; Tăng cường quảng bá và Điều chỉnh giá cả hợp lý.

Mô hình nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu một số lý thuyết và lược khảo một số nghiên cứu trong và ngoài nước, tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu với 6 yếu tố (1) Sự hữu ích; (2) Sự tiện lợi; (3) Giá cả hợp lý ; (4) Ảnh hưởng xã hội; (5) Thương hiệu và (6) Công nghệ chuyển đổi số cùng với 6 giả thuyết nghiên cứu tương ứng (Hình 1).

Hình 1: Mô hình nghiên cứu đề xuất

Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định sử dụng dịch vụ đặt xe taxi điện trực tuyến VinFatst của hành khách tại TP. Hồ Chí Minh

Nguồn: Đề xuất của tác giả

Giả thuyết nghiên cứu

H1: Sự hữu ích (HI) ảnh hưởng cùng chiều (+) đến Quyết định sử dụng dịch vụ đặt xe trực tuyến VinFast.

H2: Giá cả (GC) ảnh hưởng ngược chiều (-) đến Quyết định sử dụng dịch vụ đặt xe trực tuyến VinFast.

H3: Sự tiện lợi (TL) ảnh hưởng cùng chiều (+) đến Quyết định sử dụng dịch vụ đặt xe trực tuyến VinFast.

H4: Ảnh hưởng xã hội (XH) ảnh hưởng cùng chiều (+) đến Quyết định sử dụng dịch vụ đặt xe trực tuyến VinFast.

H5: Thương hiệu (TH) ảnh hưởng cùng chiều (+) đến Quyết định sử dụng dịch vụ đặt xe trực tuyến VinFast.

H6: Công nghệ chuyển đổi số (CDS) ảnh hưởng cùng chiều (+) đến Quyết định sử dụng dịch vụ đặt xe trực tuyến VinFast.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính kết hợp với định lượng. Trong phương pháp nghiên cứu định tính, tác giả tiến hành phỏng vấn trực tiếp 7 chuyên gia là các nhà quản lý của Công ty VinFast tại TP. Hồ Chí Minh và một số hành khách thường xuyên đi lại bằng pương tiện taxi trực tuyến để xác định mô hình nghiên cứu và sau đó mời 7 hành khách khác cùng 2 chuyên gia tiến hành thảo luận nhóm hiệu chỉnh các thang đo cho rõ ràng, dễ hiểu làm cơ sở thiết kế Bảng khảo sát chính thức. Phương pháp định lượng được sử dụng để khảo sát để phỏng vấn các đối tượng là hành khách thường xuyên sử dụng dịch vụ đặt xe trực tuyến của Xanh SM, thời gian thực hiện trong tháng 10-12/2024. Kết quả thu được 262/280 phiếu khảo sát hợp lệ và được xử lý lý bằng phần mềm SPSS 26.0.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Kiểm định độ tin cậy Cronbach’s Alpha

Bảng 1: Kết quả phân tích độ tin cậy thang đo

TT

Yếu tố

Biến quan sát ban đầu

Biến quan sát còn lại

Hệ số Cronbach’s Alpha

Biến bị loại

1

Giá cả (GC)

4

4

0,780

2

Sự hữu ích (HI)

4

4

0,795

3

Sự tiện lợi (TL)

5

5

0,849

4

Ảnh hưởng xã hội (XH)

4

4

0,765

5

Thương hiệu (TH)

4

4

0,816

6

Công nghệ chuyển đổi số (CDS)

5

4

0,792

CDS5

7

Quyết định

4

4

0,825

Tổng

30

29

Nguồn: Phân tích dữ liệu của tác giả

Kết quả phân tích độ tin cậy Bảng 1 cho thấy, các thang đo đều có hệ số Cronbach’s Alpha tổng > 0,6. Tuy nhiên, thang đo Công nghệ chuyển đổi số (CDS) có độ tin cậy 0,712 và biến quan sát CDS5 có tương quan biến tổng = 0,123 < 0,3, nên bị loại. Tiếp tục kiểm định độ tin cậy lần 2 thang đo này, kết quả hệ số Cronbach’s Alpha tăng lên và đạt 0,792, tất các các biến có tương quan biến tổng đều > 0,3. Kết quả kiểm định độ tin cậy 7 thang đo với 29 biến quan sát đều đạt yêu cầu để đưa vào phân tích nhân tố khám phá (EFA).

Phân tích EFA

Đối với biến độc lập, kết quả chạy EFA các biến độc lập cho giá trị KMO = 0,872 > 0,5, từ đó, cho thấy phân tích EFA là phù hợp. Giá trị Sig. của Bartlett’s = 0,000, < mức ý nghĩa 5% cho thấy, các biến quan sát có tương quan với nhau trong tổng thể và phù hợp để phân tích EFA. Hệ số Eigenvalue = 1,326 > 1, thì nhân tố rút trích có ý nghĩa tóm tắt thông tin tốt. Tổng phương sai trích = 63,242% ( > 50%), điều này cho thấy, 6 nhân tố rút trích giải thích 63,482% biến thiên của dữ liệu quan sát. Kết quả có 6 thành phần với 29 biến quan sát. Các biến quan sát trong 6 nhân tố độc lập được trích đều có hệ số tải > 0,5 đạt yêu cầu

Đối với biến phụ thuộc, kết quả phân tích EFA cho biến phụ thuộc cho kết quả như sau: KMO là 0,802 > 0,5 và kiểm định Barlett có Sig. = 0,000 < 0,05, cho thấy, phân tích EFA phù hợp với dữ liệu khảo sát thu thập được. Phân tích EFA rút trích được 1 nhân tố với tổng phương sai trích bằng 65,580% > 50% tại giá trị Eigenvalue = 2,623 > 1. Các biến quan sát trong nhân tố phụ thuộc được trích đều có hệ số tải > 0,5 (đạt yêu cầu kiểm định EFA) và đều được gom về cùng thang đo.

Phân tích mối tương quan giữa biến độc lập và biến phụ thuộc

Bảng 2 cho thấy, có 5 biến độc lập đều có tương quan cùng chiều với biến phụ thuộc và hệ số tương quan (r) giảm dần theo thứ tự TH, XH, HI, CDS, TL. Riêng biến giá có r = - 0,422 < 0, chứng tỏ Giả cả cả tương quan nghịch chiều với Quyết định sử dụng dịch vụ đặt xe điện trực tuyến VinFast của hành khách tại TP. Hồ Chí Minh. Như vậy, cước phí càng cao thì hành khách sẽ giảm đi taxi điện VinFast.

Bảng 2: Kết quả phân tích tương quan

HI

GC

TL

TH

CDS

XH

QD

Tương quan Pearson (r)

0,580

-0,422

0,377

0,669

0,433

0,635

Sig. (2-tailed)

0,000

0,000

0,000

0,000

0,000

0,000

N

208

208

208

208

208

208

Nguồn: Xử lý SPSS

Phân tích hồi quy tuyến tính

Bảng 3: Kết quả phân tích hồi quy

Thành phần

Hệ số chưa chuẩn hóa

Hệ số chuẩn hóa

t

Sig.

VIF

B

Độ lệch chuẩn

Beta

Hằng số

,639

,278

2,298

,023

HI

,177

,041

,204

4,348

,000

1,415

GC

-,096

,035

-,122

-2,719

,007

1,283

TL

,054

,040

,060

1,342

,181

1,295

TH

,323

,039

,389

8,310

,000

1,399

CDS

,085

,038

,103

2,256

,025

1,344

XH

,236

,038

,297

6,192

,000

1,469

R2 điều chỉnh = 0,677

Durbin-Watson = 1,947

F = 73,154 (Sig. ANOVA = 0,00)

Nguồn: Xử lý SPSS

Từ kết quả kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến, hệ số phóng đại phương sai VIF của các biến nằm khoảng từ 1,283 đến 1,469 (< 2), Do đó, hiện tượng đa cộng tuyến giữa các biến độc lập khá nhỏ trong mô hình này, như vậy, mô hình hồi quy không vi phạm hiện tượng đa cộng tuyến. Giá trị Durbin-Watson = 2,162 < 3, chứng tỏ không có sự tự tương quan bậc nhất. Kết quả hồi quy cho hệ số R2 hiệu chỉnh = 0,677, như vậy mô hình hồi quy phù hợp, với 67,70% sự biến thiên của biến phụ thuộc được giải thích bởi các biến độc lập TH, XH, GC, CDS, HI, TL, 32,3% còn lại được giải thích bởi các nhân tố khác..

Qua bảng phân tích phương sai ANOVA cho thấy, trị số F = 73,154 và có mức ý nghĩa Sig. = 0,000 (Sig. < 0,05), có ý nghĩa mô hình hồi quy phù hợp với dữ liệu thu thập được và các biến đưa vào đều có ý nghĩa trong thống kê với mức ý nghĩa 5%.

Kết quả kiểm định hồi quy có thang đo Sự tiện lợi (TL) có giá trị Sig. = 0,181 > 0,05, không có ý nghĩa thống kê, nên loại biến này. Biến TL không ảnh hưởng đến quyết định sử dụng dịch vụ đặt xe trực tuyến của hành khách. Điều này phản ảnh đứng với thực tế vì việc sử dụng taxi trực tuyến hiện nay là quá tiện lợi đối với hành khách không riêng gì taxi điện VinFast.

Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố được sắp xếp theo thự tự từ lớn đến nhỏ thông qua phương trình hồi quy chuẩn hóa sau:

QĐ = 0,389 * TH + 0,297 * XH + 0,204 * HI + 0,103 * CDS - 0,122 * GC

Kiểm định sự khác biệt

Đối với nhóm khách hàng có giới tính khác nhau, thì kết quả kiểm định Levene về tính tương đồng của phương sai có giá trị Sig. = 0,073 > 0,05, nên phương sai giữa nam và N = nữ bằng nhau. Giá trị Sig. của T-test = 0,344 > 0,05, nên kết luận rằng, không có sự khác biệt giữa nam và nữ về quyết định sử dụng dịch vụ taxi điện trực tuyến VinFast của hành khách tại khu vực TP. Hồ Chí Minh.

Đối với các nhóm khách hàng có thu nhập khác nhau, thì kết quả kiểm định tính đồng nhất của phương sai có giá trị Sig. = 0,390 > 0,5. Do đó tác giả tiếp tục kiểm định Robust thay vì kiểm định ANOVA. Kết quả kiểm định Robust có giá trị Sig. = 0,863 > 0,5, chứng tỏ không có sự khác biệt giữa các nhóm khách hàng có thu nhập khác nhau về quyết định sử dụng dịch vụ taxi điện trực tuyến VinFast của hành khách tại khu vực TP. Hồ Chí Minh

Đối với các nhóm khách hàng có nghề nghiệp khác nhau, thì kết quả kiểm định tính đồng nhất của phương sai có giá trị Sig. = 0,128 > 0,5. Do đó, tác giả tiếp tục kiểm định Robust thay vì kiểm định ANOVA. Kết quả kiểm định Robust có giá trị Sig. = 0,182 > 0,5 chứng tỏ không có sự khác biệt giữa các nhóm khách hàng có nghề nghiệp khác nhau về quyết định sử dụng dịch vụ taxi điện trực tuyến VinFast của hành khách tại khu vực TP. Hồ Chí Minh.

KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý QUẢN TRỊ

Kết luận

Kết quả nghiên cứu cho thấy, có 5 nhân tố ảnh hưởng đến Quyết định sử dụng dịch vụ taxi điện trực tuyến VinFast của hành khách tại TP. Hồ Chí Minh, gồm: Thương hiệu; Ảnh hưởng xã hội; Sự hữu ích; Công nghệ chuyển đổi số và Giá cả. Biến Sự tiện lợi (TL) bị bác bỏ và biến TL không ảnh hưởng đến Quyết định sử dụng dịch vụ taxi điện trực tuyến VinFast của hành khách. Các nhân tố giới tính, thu nhập, nghề nghiệp của các nhóm hành khách khảo sát không có sự khác biệt về quyết định sử dụng dịch vụ taxi điện trực tuyến VinFast của hành khách tại TP. Hồ Chí Minh

Đề xuất hàm ý quản trị

Căn cứ vào kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số hàm ý quản trị như sau:

Thương hiệu (TH)

Nhân tố Thương hiệu ảnh hương mạnh nhất đến quyết định sử dụng dịch vụ taxi điện trực tuyến VinFast của hành khách tại TP. Hồ Chí Minh và được hành khách đánh giá cao. Điều này chứng tỏ thương hiệu taxi điện VinFast (Xanh SM) được hành khách tin tưởng. Do đó, ngoài việc nâng cao chất lượng phục vụ, sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu của khách hàng, Công ty cần đẩy mạnh tổ chức thêm các hoạt động hướng về cộng đồng, bảo vệ môi trường để tăng thêm giá trị xanh, sạch, đẹp cho thương hiệu của mình.

Ảnh hưởng xã hội (XH)

Ảnh hưởng xã hội là nhân tố mạnh thứ 2 có ảnh hưởng tích cực (cùng chiều) đến Quyết định sử dụng dịch vụ taxi điện trực tuyến VinFast của hành khách tại TP. Hồ Chí Minh. Khách hàng tin tưởng nhiều đến các thông tin được cung cấp từ bạn bè, người thân; một phần là do thông tin trên mạng có quá nhiều và quá đề cao, nên đối với các thông tin từ truyền thông không ảnh hưởng nhiều đến quyết định sử dụng dịch vụ taxi điện trực tuyến VinFast. Do đó, VinFast cần quan tâm đến xu hướng này để hướng các hoạt động marketing của mình, đặc biệt hướng vào kênh chia sẻ trực tuyến thông qua các cộng đồng mạng mà doanh nghiệp muốn nhắm đến. Công ty nên tận dụng sức mạnh truyền miệng từ hành khách đi xe, tranh thủ tận dụng sự ảnh hưởng của xã hội bao gồm: người thân gia đình, bạn bè của khách hàng để quảng bá dịch vụ và thương hiệu của mình. Chỉ cần giữ cam kết chất lượng dịch vụ với người tiêu dùng, giữ gìn mối quan hệ thật tốt với người tiêu dùng cũ thì việc quảng bá sẽ trở nên dễ dàng và hiệu quả hơn.

Sự hữu ích (HI)

Nhận thức sự hữu ích là nhân tố mạnh thứ ba có ảnh hưởng tích cực (cùng chiều) lên quyết định sử dụng dịch vụ taxi điện trực tuyến VinFast của hành khách tại TP. Hồ Chí Minh. Công ty cần cố gắng truyền thông, quảng bá tính hữu ích của dịch vụ phát triển theo xu thế hội nhập toàn cầu để nâng cao nhận thức của hành khách về tính hữu ích của dịch vụ. Cụ thể, đẩy mạnh quảng bá các tính năng nổi trội của dịch vụ như giúp khách hàng tiết kiệm được thời gian, chi phí hơn, đi lại dễ dàng, không bị giới hạn về thời gian và không gian, thân thiện với môi trường

Công nghệ chuyển đổi số (CDS)

Công nghệ chuyển đổi số là nhân tố mạnh thứ tư có ảnh hưởng tích cực (cùng chiều) lên Quyết định sử dụng dịch vụ taxi điện trực tuyến VinFast của hành khách. Trong thời kỳ công nghệ 4.0, song song với việc đẩy mạnh sáng tạo và ra mắt các sản phẩm vượt trội về công nghệ dành cho khách hàng, đầu tư vào các ứng dụng công nghệ chuyển đổi số là một phần hết sức cần thiết và quan trọng cho dịch vụ taxi trực tuyến. Công ty nên bắt kịp xu thế, nghiên cứu thường xuyên, liên tục và ứng dụng nhanh chóng các công nghệ chuyển đổi số một cách tích cực, phù hợp, đáp ứng được nhu cầu công việc, từ đó nâng cao hiệu quả phục vụ của dịch vụ taxi điện trực tuyến VinFast. Đồng thời, việc kết hợp đào tạo, hướng dẫn sử dụng một cách cụ thể và chi tiết các ứng dụng để các lái xe có thể dễ dàng sử dụng một cách tiện lợi các ứng dụng chuyển đổi số, từ đó nâng cao năng suất làm việc và giảm bớt áp lực.

Giá cả (GC)

Giả cả là nhân tố có ảnh hưởng ngược chiều đến quyết định sử dụng dịch vụ taxi điện trực tuyến VinFast của hành khách tại TP. Hồ Chí Minh. Nghĩa là cước phí taxi điện càng cao, thì hành khách sẽ giảm sử dụng dịch vụ taxi điện trực tuyến VinFast. Vì thế, Công ty nên tận dụng những lợi thế về chi phí, như: sử dụng dụng năng lượng điện thay vì nhiên liệu xăng dầu, lợi thế đem lại sạch, xanh cho môi trường, để giảm cước phí cho phù hợp. Ngoài ra, cần phải cân nhắc các dòng xe đưa vào sử dụng cho dịch vụ taxi trực tuyến cho hợp lý. Không đưa nhiều dòng xe cao cấp để chạy dịch vụ, vì khấu hao cao, ảnh hưởng đến giá thành, cước phí dịch vụ taxi điện trực tuyến./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Borishade, T. T., Ogunnaike, O. O., Salau, O., Motilewa, B. D., and Dirisu, J. I. (2021), Assessing the relationship among service quality, student satisfaction and loyalty: the NIGERIAN higher education experience, Heliyon, 7(7).

2. Nguyễn Thị Khánh Chi (2020), Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng taxi truyền thống, Tạp chí Kinh tế Đối ngoại, Số 123, trang 25-35.

3. Parasuraman, A., V. A Zeithaml and L. L. Berry. (1988), Servqual: A multipleitem scale for measuring consumer perceptions of service quality, Journal of Retailing, 64, 12-40.

4. Phạm Văn Kiên và cộng sự (2021), Hành vi của người tiêu dùng đối với dịch vụ GrabCar và giải pháp nâng cao thị phần taxi công nghệ tại Việt Nam, Tạp chí Khoa học Đại học Văn Lang, Tập 9, Số 36, 36-45.

5. Seojin Lee, Woojin Lee, Christine A. Vogt, Ying Zhang (2021), A Comparative Analysis of Factors Influencing Millennial Travellers' Intentions to Use Ride-Hailing. Information Technology & Tourism, 2(23), 133-157

6. Sultan Al-Masaeed, Mohammad K. Al-Nawayseh, Bader M. AlFawwaz, Mahmoud Maqableh, Mohammad M. Alnabhan, Ra'ed Masa'deh, Atallah Al-Shatnawi (2022). Factors Affecting Consumers’ Intention to Use Mobile Ride Hailing Services in Developing Countries, International Journal of Interactive Mobile Technologies (iJIM), 11(16), 207-223

7. Szwacka-Mokrzycka (2015), Trends in Consumer Behaviour Changes: Overview of Concepts, Journal of Acta Scientiarum Polonorum. Oeconomia, 3(14), 149-156

8. Vietnam Ride Hailing (2024), Báo cáo nghiên cứu ngành gọi xe Việt Nam năm 2024: Nghiên cứu thị trường Mordor Intelligence.

9. Yu Wang, et al. (2018), Quantifying the Impact of Peer Influence on Ride-Hailing Usage: A Multi-Scale Social Influence Model, Journal of Transportation Research Part C: Emerging Technologies, 86, 310-326.

Ngày nhận bài: 18/02/2025; Ngày phản biện: 28/02/2025; Ngày duyệt đăng: 01/03/2025