Các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng tiêu chuẩn ESG tại doanh nghiệp logistics Việt Nam
TS. Đoàn Ngọc Ninh
Nguyễn Thị Thanh Huyền
Tống Thị Thảo
Phạm Minh Thu
Phùng Minh Tâm
Tóm tắt
Bài viết này phân tích thực trạng áp dụng tiêu chuẩn ESG tại doanh nghiệp logistics Việt Nam và đề xuất giải pháp để các doanh nghiệp thực hiện tiêu chuẩn đồng bộ và dễ dàng hơn trong bối cảnh phát triển kinh tế bền vững. Thông qua khảo sát 124 doanh nghiệp logistics Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ, kết quả phân tích cho thấy, có 7 nhân tố tác động tới hành vi áp dụng tiêu chuẩn ESG của doanh nghiệp. Mức độ tác động của các nhân tố được sắp xếp theo thứ tự từ thấp đến cao như sau: Trách nhiệm đạo đức; Xu hướng thị trường; Khả năng áp dụng của doanh nghiệp; Hỗ trợ từ chính phủ; Cảm nhận sự hữu ích; Sự hài lòng của nhân viên; Ý chí của CEO.
Từ khóa: Tiêu chuẩn ESG, logistics bền vững, phát triển bền vững, logistics
Summary
This article analyzes the current status of ESG standards application in Vietnamese logistics enterprises and proposes solutions for enterprises to implement standards more synchronously and easily in the context of sustainable economic development. Through a survey of 124 Vietnamese logistics enterprises of small and medium size, the analysis results show 7 factors affecting the behaviour of enterprises applying ESG standards. The impact level of the factors is arranged in order from low to high: Ethical responsibility; Market trends; Enterprise applicability; Government support; Perceived usefulness; Employee satisfaction; and CEO's will.
Keywords: ESG standards, sustainable logistics, sustainable development, logistics
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, phát triển kinh tế bền vững đã và đang trở thành vấn đề cấp thiết mang tính toàn cầu và được đưa vào chiến lược phát triển của các quốc gia trên thế giới. Một nền kinh tế tăng trưởng bền vững thể hiện ở các khía cạnh như bảo vệ môi trường, tăng cường hiệu quả sử dụng tài nguyên, phát triển bền vững, tăng cường đầu tư và phát triển. Năm 2004, thuật ngữ ESG xuất hiện lần đầu trong một báo cáo quan trọng được thực hiện dưới sự bảo trợ của Liên hợp quốc. ESG có thể coi là tiêu chuẩn xanh, mang lại lợi ích hài hòa giữa Môi trường, Xã hội và Quản trị, yếu tố này đặc biệt quan trọng đối với ngành logistics khi từng hoạt động trong đời sống đều có dấu ấn của ngành. Hoạt động logistics đã gây ra nhiều tác động lớn đến môi trường như: tăng ô nhiễm không khí, tạo ra một lượng lớn nước thải và chất thải rắn thải ra đại dương, tiếng ồn do vận tải đường biển, nghiêm trọng hơn là thảm họa tràn dầu (Đoàn Thị Thu Trang và Nguyễn Khánh Linh, 2024).
Xuất phát từ vấn đề của thực tiễn, nhóm tác giả nhận thấy việc ứng dụng ESG là cần thiết bởi những lợi ích mà tiêu chuẩn đem lại. Đối với ngành Logistics và hoạt động trong chuỗi cung ứng, Han Yang (2024) cho rằng việc tích hợp các nguyên tắc Môi trường, Xã hội và Quản trị (ESG) vào quản lý chuỗi cung ứng xanh hướng tới đạt được tính bền vững và trách nhiệm của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc ứng dụng tiêu chuẩn này đòi hỏi nhiều về nguồn nhân lực, chi phí bởi áp dụng tiêu chuẩn ESG để hướng tới phát triển bền vững là nước đi dài cho doanh nghiệp, đồng nghĩa với việc những doanh nghiệp Logistics đủ khả năng ứng dụng tiêu chuẩn này còn hạn chế.
Đối với ngành logistics, tiêu chuẩn ESG vẫn còn là khái niệm mới, chưa nhiều doanh nghiệp được tiếp cận tới tiêu chuẩn này. Ngoài ra, do đa phần quy mô doanh nghiệp logistics ở Việt Nam là vừa và nhỏ, tiềm lực để đầu tư cho một hướng đi mới là chưa đủ. Để rút ngắn khoảng cách đó, đòi hỏi phải có cái nhìn tổng quát về thực trạng và sự thấu hiểu trong nhận thức của doanh nghiệp logistics về tiêu chuẩn ESG. Do đó, việc nghiên cứu về thực trạng ứng dụng tiêu chuẩn ESG bằng việc đề xuất mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến ứng dụng tiêu chuẩn này là rất cần thiết.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
Khái niệm về ESG
Khái niệm ESG xuất phát từ thị trường tài chính ở những năm 1970, khi một nhóm nhỏ các nhà đầu tư quan tâm đến các hoạt động xã hội và môi trường của các công ty mà họ đầu tư (Galbreath, 2013). “ESG” là một từ viết tắt đại diện cho các yếu tố Environmental – E, Social – S, và Governance – G. “Các yếu tố ESG là một tập hợp các chỉ số hiệu suất phi tài chính được xem xét khi đo lường tính bền vững của một tổ chức và có thể phải chịu sự đánh giá của các nhà đầu tư và các bên liên quan khác”.
Tuy nhiên, thuật ngữ ESG bắt đầu được thế giới biết đến vào cuối năm 2004 khi lần đầu tiên xuất hiện trong “Who Cares WIN Connecting Finance Marketing to a Changing World”, một báo cáo do UN Global Compact (UNGC) viết. Khái niệm ESG nhấn mạnh sự cần thiết của việc đầu tư có trách nhiệm có xem xét các yếu tố môi trường, xã hội và quản trị. Kể từ đó, ESG như một bộ tiêu chuẩn đánh giá một cách có hệ thống mức độ bền vững của doanh nghiệp được đầu tư.
Mô hình và giả thuyết nghiên cứu
Ngày càng có nhiều nhà đầu tư quan tâm đến các vấn đề bền vững và mong muốn đưa ra quyết định đầu tư ESG dựa trên việc phân tích dữ liệu đáng tin cậy để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Theo nghiên cứu của Bùi Minh Tiến et al (2024), các nhà đầu tư và các bên liên quan mong đợi sự minh bạch thông tin ESG để đo lường và so sánh hiệu suất. Vì thế, ngày càng nhiều doanh nghiệp trong các lĩnh vực ngành nghề khác nhau có ý định áp dụng tiêu chuẩn ESG để thu hút nhà đầu tư. Điều này tạo nên xu hướng chung trong nền kinh tế bền vững. Từ đó, nhóm tác giả đề xuất giả thuyết sau:
Giả thuyết H1: Xu hướng thị trường có ảnh hưởng đến Ý định hành vi áp dụng tiêu chuẩn ESG.
Theo lý thuyết cạnh tranh ngành của Porter (1980), mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp không chỉ thúc đẩy sự đổi mới mà còn buộc các doanh nghiệp phải liên tục cải tiến để duy trì năng lực cạnh tranh. Tại Việt Nam, những doanh nghiệp tiên phong trong áp dụng ESG không chỉ tạo động lực, mà còn thiết lập chuẩn mực để các doanh nghiệp khác trong ngành phải tuân thủ nhằm duy trì năng lực cạnh tranh, đồng thời đáp ứng các yêu cầu ngày càng khắt khe từ thị trường và các bên liên quan (Nguyễn Thị Quỳnh Như, 2024). Từ những cơ sở đó, nhóm tác giả đề xuất giả thuyết sau:
Giả thuyết H2: Áp lực từ doanh nghiệp cùng ngành có ảnh hưởng đến Ý định hành vi áp dụng tiêu chuẩn ESG.
Sự hỗ trợ của chính phủ là các chương trình được kỳ vọng tạo điều kiện thúc đẩy sự thành công trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp (Shamsuddoha and Ali, 2006). Sự hỗ trợ của chính phủ không chỉ để thúc đẩy khả năng tiếp cận nhanh chóng với các nguồn lực mà còn hỗ trợ tài chính và phi tài chính cho các doanh nghiệp ở các giai đoạn kém phát triển. Alayón và cộng sự (2022) tuyên bố rằng, chính phủ là người hỗ trợ mạnh mẽ có thể giảm bớt các rào cản đối với việc áp dụng ESG của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Từ cơ sở trên, nhóm tác giả đề xuất giả thuyết sau:
Giả thuyết H3: Hỗ trợ từ chính phủ có ảnh hưởng đến Ý định hành vi áp dụng tiêu chuẩn ESG.
Dựa trên mô hình “kim tự tháp” của Carroll (1991), trách nhiệm kinh tế được coi là nền tảng cho các yếu tố trách nhiệm khác trong doanh nghiệp. Việc đầu tư ESG là một cách tiếp cận nhằm lồng ghép các yếu tố Môi trường, Xã hội và Quản trị vào các quyết định về rủi ro và phân bổ tài sản, để tăng cường lợi nhuận tài chính bền vững và dài hạn (GSIA, 2019). Từ những cơ sở đó, bài viết đề xuất giả thuyết sau:
Giả thuyết H4: Trách nhiệm kinh tế có ảnh hưởng đến Ý định hành vi áp dụng tiêu chuẩn ESG.
Một nghiên cứu quốc tế của Carter và Rogers (2008) cũng cho thấy, việc tuân thủ các tiêu chuẩn pháp lý trong chuỗi cung ứng là yếu tố cốt lõi giúp doanh nghiệp đạt được sự phát triển bền vững lâu dài. Các doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm pháp luật tốt hơn có xu hướng đạt hiệu quả cao hơn trong việc áp dụng các tiêu chuẩn ESG (Hummel và Schlick, 2016). Từ những cơ sở đó, bài viết đề xuất giả thuyết sau:
Giả thuyết H5: Trách nhiệm pháp luật có ảnh hưởng đến Ý định hành vi áp dụng tiêu chuẩn ESG.
Trách nhiệm đạo đức thúc đẩy doanh nghiệp thực hiện các tiêu chuẩn ESG bởi vì nó tạo ra nền tảng về đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội, giúp doanh nghiệp xây dựng uy tín và duy trì sự bền vững trong dài hạn. Dựa trên mô hình của Spence (2014), trách nhiệm đạo đức của doanh nghiệp nhỏ có bốn phạm trù chính: Làm thiện nguyện, Đạo đức và chăm lo, Đáp ứng điều kiện kinh tế và pháp lý, Liêm chính của cá nhân. Từ đó, nhóm tác giả đề xuất giả thuyết sau:
Giả thuyết H6: Trách nhiệm đạo đức có ảnh hưởng đến Ý định hành vi áp dụng tiêu chuẩn ESG.
Theo nghiên cứu của Lê Thị Kim Nhung và Lê Thị Thu Huyền (2023) đã chỉ ra rằng doanh nghiệp có nhận thức đúng về các vấn đề thuộc ESG cũng sẽ thúc đẩy hành vi thực hành trong hoạt động của họ, qua đó đạt tới mục tiêu phát triển bền vững, hướng tới các tiêu chuẩn ESG. Park và cộng sự (2024) đã nhấn mạnh sự nhận thức ngày càng tăng trong cách tiếp cận kinh doanh đối với tính bền vững và trách nhiệm của doanh nghiệp. Qua đây, nhóm tác giả đề xuất giả thuyết sau:
Giả thuyết H7: Hiểu biết của doanh nghiệp có ảnh hưởng đến Ý định hành vi áp dụng tiêu chuẩn ESG.
Trong nghiên cứu của Moon và Kim (2001), kết quả cho thấy, nhận thức hữu ích đóng một vai trò quan trọng và tác động tích cực đến ý định hành vi, từ đó dẫn đến hành vi thực tế. Trong nghiên cứu này, sự hữu ích được cảm nhận là những lợi ích, giá trị từ việc áp dụng tiêu chuẩn ESG đem lại cho doanh nghiệp như tối đa hóa giá trị cổ đông, nâng cao danh tiếng và đảm bảo khả năng tồn tại lâu dài của công ty (Parast và Adams, 2012). Từ cơ sở đó, bài viết đề xuất giả thuyết sau:
Giả thuyết H8: Cảm nhận sự hữu ích có ảnh hưởng đến Ý định hành vi áp dụng tiêu chuẩn ESG.
Sự lãnh đạo có đạo đức của CEO được các thành viên tổ chức của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhận thấy, có ảnh hưởng tích cực đến trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Lee Ho-seok và cộng sự, 2021). Các CEO có nhận thức cao về môi trường có ảnh hưởng tích cực đến việc áp dụng quản lý ESG (Aibar-Guzmán và Frías-Aceituno, 2021). Từ đó, nhóm tác giả đề xuất giả thuyết sau:
Giả thuyết H9: Ý chí của CEO có ảnh hưởng đến Ý định hành vi áp dụng tiêu chuẩn ESG.
Khi tổ chức tạo cơ hội cho nhân viên tham gia các hoạt động ESG, nhân viên không chỉ cảm thấy hài lòng với cơ hội đóng góp cho cộng đồng mà còn hình thành sự gắn kết chặt chẽ và tương thích cao hơn với tổ chức, cộng đồng và môi trường xung quanh (Ghosh, D et al., 2014). Nền tảng này điều chỉnh các giá trị của tổ chức với giá trị cá nhân của nhân viên, nâng cao khả năng tương thích và sự hài lòng trong công việc (Villanova, P. et al., 1994). Từ những cơ sở đó, nhóm tác giả đề xuất giả thuyết sau:
Giả thuyết H10: Sự hài lòng của nhân viên có ảnh hưởng đến Ý định hành vi áp dụng tiêu chuẩn ESG.
Khả năng áp dụng của doanh nghiệp là mức độ mà doanh nghiệp có thể thực hiện hoặc triển khai một cách hiệu quả các quy trình, tiêu chuẩn, hoặc chiến lược mới vào hoạt động sản xuất kinh doanh (Bryan J. Weiner, 2020). Nó bao gồm các năng lực về mặt tổ chức, tài chính, con người, công nghệ, và văn hóa doanh nghiệp để đảm bảo rằng những cải tiến hoặc thay đổi được thực hiện thành công và mang lại giá trị lâu dài (Kea Turner et al, 2020). Qua đây, nhóm tác giả đề xuất giả thuyết sau:
Giả thuyết H11: Khả năng áp dụng của doanh nghiệp có ảnh hưởng đến Hành vi áp dụng tiêu chuẩn ESG.
Taylor và Todd (1995) cho rằng, việc người dự định thực hiện hành vi có đầy đủ thông tin cần thiết cho quyết định của mình và sự quyết đoán của cá nhân người dự định thực hiện hành vi chính là sự nhận thức kiểm soát hành vi của khách hàng. Nghiên cứu của Limayem, Khalifa, và Frini (2000) bổ sung thêm yếu tố sự mong đợi để được thực hiện hành vi của khách hàng. Từ cơ sở đó, bài viết đề xuất giả thuyết sau:
Giả thuyết H12: Ý định hành vi áp dụng có ảnh hưởng đến Hành vi áp dụng tiêu chuẩn ESG.
Từ các giả thuyết trên, bài viết đề xuất mô hình nghiên cứu như sau:
Hình 1: Mô hình nghiên cứu đề xuất
Nguồn: Nhóm tác giả đề xuất
Mã hóa các biến: Xu hướng thị trường (MT), Áp lực từ doanh nghiệp cùng ngành (IP), Hỗ trợ từ chính phủ (GS), Trách nhiệm kinh tế (ER), Trách nhiệm pháp luật (LR), Trách nhiệm đạo đức (MR), Hiểu biết của doanh nghiệp (UB), Cảm nhận sự hữu ích (PU), Ý chí của CEO (CW), Sự hài lòng của nhân viên (ES), Khả năng áp dụng của doanh nghiệp (IC), Ý định hành vi áp dụng (HA), Hành vi áp dụng (BE).
Phương pháp nghiên cứu
Để đạt mục tiêu nghiên cứu, nhóm tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng và xử lý bằng phần mềm SPSS 26.0 và Smart-PLS 3.0. Dữ liệu được khảo sát bằng cách phát bảng câu hỏi trực tuyến qua Google Form với thang đo Likert 5 mức độ. Đối tượng khảo sát là đại diện các công ty logistics Việt Nam. Trong bài viết này, nhóm lựa chọn phương pháp của Hair và cộng sự. (2013), kích thước mẫu nên bằng hoặc lớn hơn mười lần số lớn nhất của đường dẫn cấu trúc hướng vào một biến nghiên cứu cụ thể trong mô hình cấu trúc. Vì vậy, trong bài viết, kích cỡ mẫu tối thiểu cần có để đảm bảo độ tin cậy và mức độ ổn định là 10 x 10 = 100 (mẫu). Tuy nhiên để kết quả nghiên cứu có ý nghĩa thống kê cao hơn, nhóm tác giả đã gửi 150 phiếu và số lượng phiếu khảo sát hợp lệ là 124. Phương pháp chọn mẫu thuận tiện được lựa chọn trong bài viết. Đây là phương pháp chọn mẫu phi xác suất, trong đó nhà nghiên cứu tiếp cận với phần tử mẫu bằng phương pháp thuận tiện. Việc phân tích được tiến hành theo trình tự đánh giá mô hình đo lường và đánh giá mô hình cấu trúc (Bài viết sử dụng cách viết số thập phân theo chuẩn quốc tế).
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Chất lượng biến quan sát
Theo Hair và cộng sự (2010) đã chỉ ra rằng, với hệ số Cronbach’s Alpha nếu nằm trong khoảng từ 0.70 đến 0.95 có nghĩa là thang đo sử dụng tốt còn với hệ số α ≥ 0.6 thì thang đo lường đủ điều kiện để sử dụng. Khi phân tích định lượng sơ bộ, kết quả kiểm định hệ số Cronbach’s Alpha của cả 13 nhân tố ở Bảng 1 đều đạt mức khuyến nghị, dao động từ 0.699 đến 0.917. Bên cạnh đó, Hair et al (2019) cho rằng hệ số tải ngoài Outer Loading cần lớn hơn hoặc bằng 0.7 để đảm bảo chất lượng biến quan sát. Tuy nhiên, khi phân tích định lượng chính thức bằng hệ số Outer Loading, thang đo IP2 (Áp lực chi phí đầu tư), MR3 (Chất lượng dịch vụ khách hàng), UB3 (Nhận thức tầm quan trọng) có hệ số tải nhỏ hơn 0.7, vì vậy cần xem xét loại bỏ 3 biến này khỏi mô hình. Mặt khác, khi phân tích bằng hệ số Cronbach’s Alpha, nếu loại bỏ MR3, giá trị Cronbach’s Alpha if Item Deleted của MR3 (0.690) nhỏ hơn hệ số Cronbach’s Alpha của MR (0.713). Tương tự, nếu loại bỏ UB3, giá trị Cronbach’s Alpha if Item Deleted của UB3 (0.718) nhỏ hơn hệ số Cronbach’s Alpha của UB (0.729). Ngược lại, nếu loại bỏ IP2, giá trị Cronbach’s Alpha if Item Deleted của IP2 (0.741) lớn hơn hệ số Cronbach’s Alpha của IP (0.699). Điều này cho thấy việc loại bỏ IP2 sẽ giúp cải thiện độ tin cậy của thang đo, trong khi MR3 và UB3 vẫn cần được giữ lại. Vì vậy, nhóm tác giả quyết định loại bỏ biến IP2 và giữ lại hai biến MR3, UB3 trong mô hình. Sau khi loại bỏ IP2, hệ số tải ngoài Outer Loading của tất cả các biến còn lại đều lớn hơn 0.7, đảm bảo chất lượng mô hình, và kết quả dữ liệu mới được sử dụng trong các phân tích tiếp theo.
Độ tin cậy thang đo và giá trị hội tụ
Theo Hair và coognj sự (2014), độ tin cậy tổng hợp (CR - composite reliability) và phương sai trích trung bình (AVE - Average variance extracted) được sử dụng để đánh giá độ tin cậy và giá trị hội tụ của các biến quan sát. Theo Henseler và Sarstedt (2013), ngưỡng 0.7 là mức phù hợp của chỉ số CR, còn theo Hock and Ringle (2010) cho rằng một thang đo đạt giá trị hội tụ nếu AVE đạt từ 0.5 trở lên. Kết quả được trình bày ở Bảng 1 cho thấy các hệ số độ tin cậy tổng hợp (CR) lớn hơn 0.7 và số liệu phương sai trích trung bình (AVE) đều lớn hơn 0.5. Do vậy dữ liệu đảm bảo độ tin cậy nhất quán đáp ứng điều kiện về giá trị hội tụ của dữ liệu nghiên cứu.
Bảng 1: Kết quả đánh giá mô hình đo lường
|
Thang đo |
Ký hiệu biến quan sát |
Biến quan sát |
Hệ số tải |
Cronbach’s Alpha |
CR |
AVE |
|
MT |
MT1 |
Tiêu chuẩn từ thị trường lớn |
0.919 |
0.765 |
0.866 |
0.684 |
|
MT2 |
Tiêu dùng xanh và bền vững |
0.799 |
||||
|
MT3 |
Ưu tiên của nhà sản xuất và tiêu dùng |
0.755 |
||||
|
IP |
IP1 |
Cạnh tranh về mức độ áp dụng ESG |
0.897 |
0.699 |
0.886 |
0.795 |
|
IP2 |
Áp lực về chi phí đầu tư |
- |
||||
|
IP3 |
Cạnh tranh để đáp ứng khách hàng và đối tác |
0.886 |
||||
|
GS |
GS1 |
Trợ cấp áp dụng ESG |
0.856 |
0.828 |
0.883 |
0.656 |
|
GS2 |
Ưu đãi thuế, phí cho doanh nghiệp thực hiện ESG |
0.866 |
||||
|
GS3 |
Đầy đủ quy định và chính sách ESG |
0.721 |
||||
|
GS4 |
Tạo động lực áp dụng ESG |
0.789 |
||||
|
ER |
ER1 |
Môi trường song song với kinh tế |
0.758 |
0.704 |
0.840 |
0.637 |
|
ER2 |
Thu hút nhà đầu tư |
0.866 |
||||
|
ER3 |
Giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh |
0.765 |
||||
|
LR |
LR1 |
Tuân thủ quy định pháp luật |
0.852 |
0.827 |
0.899 |
0.747 |
|
LR2 |
Tuân thủ cam kết của doanh nghiệp |
0.887 |
||||
|
LR3 |
Bảo vệ dữ liệu và quyền riêng tư của khách hàng |
0.853 |
||||
|
MR |
MR1 |
Công tác từ thiện cho cộng đồng |
0.914 |
0.713 |
0.826 |
0.617 |
|
MR2 |
Môi trường làm việc an toàn cho nhân viên |
0.785 |
||||
|
MR3 |
Chất lượng dịch vụ cho khách hàng |
0.733 |
||||
|
UB |
UB1 |
Chủ động tuân thủ pháp lý |
0.894 |
0.729 |
0.841 |
0.645 |
|
UB2 |
Chiến lược mục tiêu rõ ràng |
0.887 |
||||
|
UB3 |
Tầm quan trọng của môi trường, trách nhiệm xã hội và chiến lược quản trị |
0.791 |
||||
|
PU |
PU1 |
Hữu ích cho công ty |
0.846 |
0.875 |
0.913 |
0.725 |
|
PU2 |
Cải thiện hình ảnh thương hiệu |
0.816 |
||||
|
PU3 |
Mục tiêu tăng trưởng dài hạn |
0.823 |
||||
|
PU4 |
Lợi ích cho cổ đông và xã hội |
0.918 |
||||
|
CW |
CW1 |
CEO quan tâm đến ESG |
0.893 |
0.872 |
0.916 |
0.732 |
|
CW2 |
CEO tích cực giới thiệu và chấp nhận ESG |
0.887 |
||||
|
CW3 |
CEO xem xét ESG trong mọi quyết định |
0.870 |
||||
|
CW4 |
CEO trẻ tuổi quan tâm ESG hơn |
0.766 |
||||
|
ES |
ES1 |
Nhân viên có động lực làm việc với doanh nghiệp cam kết ESG |
0.946 |
0.889 |
0.923 |
0.751 |
|
ES2 |
Nhân viên tự hào về doanh nghiệp tuân thủ ESG |
0.846 |
||||
|
ES3 |
ESG bảo vệ quyền lợi của nhân viên |
0.793 |
||||
|
ES4 |
Nhân viên ủng hộ doanh nghiệp thực hiện ESG |
0.874 |
||||
|
IC |
IC1 |
Lãnh đạo có kiến thức triển khai ESG |
0.860 |
0.866 |
0.911 |
0.719 |
|
IC2 |
Doanh nghiệp có quy trình theo dõi, đo lường và báo cáo ESG |
0.875 |
||||
|
IC3 |
Doanh nghiệp có khả năng tích hợp ESG vào chiến lược kinh doanh |
0.826 |
||||
|
IC4 |
Doanh nghiệp có lộ trình triển khai ESG |
0.830 |
||||
|
HA |
HA1 |
Doanh nghiệp có kế hoạch áp dụng ESG từ trước |
0.936 |
0.917 |
0.948 |
0.859 |
|
HA2 |
Doanh nghiệp có điều kiện, thông tin để áp dụng ESG |
0.922 |
||||
|
HA3 |
Doanh nghiệp có mong đợi áp dụng ESG |
0.921 |
||||
|
BE |
BE1 |
Doanh nghiệp đáp ứng ESG trong thời gian tới |
0.904 |
0.848 |
0.909 |
0.769 |
|
BE2 |
Doanh nghiệp chọn ESG thay vì lợi nhuận ngắn hạn |
0.905 |
||||
|
BE3 |
Doanh nghiệp nỗ lực áp dụng ESG |
0.820 |
Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu bằng Smart PLS và SPSS, N = 124
Giá trị phân biệt: Theo Garson (2016), giá trị phân biệt giữa hai biến liên quan được chứng minh khi giá trị của các chỉ số HTMT nhỏ hơn 1. Khi phân tích hệ số HTMT lần thứ 2 (sau khi loại IP2) thấy một số cặp nhân tố có giá trị HTMT vượt quá 1 (vi phạm tính phân biệt) nên nhóm tác giả xem xét lại giá trị tương quan của các biến quan sát và quyết định loại biến các biến PU2 (Cải thiện hình ảnh thương hiệu), ER (Trách nhiệm kinh tế), IP (Áp lực từ doanh nghiệp cùng ngành), UB (Hiểu biết của doanh nghiệp) và chạy lại dữ liệu lần thứ 3. Kết quả trình bày ở Bảng 2 cho thấy giá trị HTMT của các cặp nhân tố đều nhỏ hơn 1, do vậy dữ liệu đảm bảo tính phân biệt.
Bảng 2: Tổng hợp giá trị HTMT của dữ liệu nghiên cứu lần 3
|
|
BE |
CW |
ES |
GS |
HA |
IC |
LR |
MR |
MT |
PU |
|
BE |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
CW |
0.850 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
ES |
0.967 |
0.771 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
GS |
0.374 |
0.627 |
0.413 |
|
|
|
|
|
|
|
|
HA |
0.953 |
0.913 |
0.859 |
0.499 |
|
|
|
|
|
|
|
IC |
0.917 |
0.651 |
0.970 |
0.619 |
0.816 |
|
|
|
|
|
|
LR |
0.602 |
0.785 |
0.706 |
0.700 |
0.608 |
0.623 |
|
|
|
|
|
MR |
0.680 |
0.782 |
0.626 |
0.639 |
0.552 |
0.651 |
0.832 |
|
|
|
|
MT |
0.532 |
0.815 |
0.675 |
0.934 |
0.513 |
0.692 |
0.951 |
0.938 |
|
|
|
PU |
0.622 |
0.891 |
0.729 |
0.866 |
0.600 |
0.671 |
0.745 |
0.909 |
0.857 |
|
Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu bằng Smart PLS, N = 124
Kết quả đánh giá mô hình cấu trúc
Đánh giá sự đa cộng tuyến: TheoHair và cộng sự (2016), hệ số phóng đại phương sai VIF không > 5 đảm bảo không xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến. Kết quả trình bày ở Bảng 3 cho thấy các hệ số VIF đều < 5, như vậy có thể kết luận không có hiện tượng đa cộng tuyến xảy ra trong mô hình cấu trúc.
Bảng 3: Bảng tổng hợp giá trị VIF của các biến tiềm ẩn
|
|
BE |
CW |
ES |
GS |
HA |
IC |
LR |
MR |
MT |
PU |
|
BE |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
CW |
|
|
|
|
3.317 |
|
|
|
|
|
|
ES |
|
|
|
|
2.309 |
|
|
|
|
|
|
GS |
|
|
|
|
2.585 |
|
|
|
|
|
|
HA |
2.121 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
IC |
2.121 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
LR |
|
|
|
|
3.765 |
|
|
|
|
|
|
MR |
|
|
|
|
2.430 |
|
|
|
|
|
|
MT |
|
|
|
|
4.654 |
|
|
|
|
|
|
PU |
|
|
|
|
4.848 |
|
|
|
|
|
Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu bằng Smart PLS, N = 124
Kiểm định các giả thuyết nghiên cứu: Để đánh giá các mối quan hệ trực tiếp (hay chính là kiểm định các giả thuyết nghiên cứu) trong mô hình cấu trúc đường dẫn PLS- SEM, phân tích Boostrap được thực hiện với mẫu lặp lại là 1000 để xác định đường dẫn hệ số, sai số chuẩn của T- values và P- values (Hair và cộng sự, 2020). Theo Hair và cộng sự (2017), dấu của hệ số tác động chuẩn hóa Original Sample cho biết mối quan hệ tương quan thuận chiều (dấu dương) và ngược chiều (dấu âm) giữa biến độc lập và biến phụ thuộc. Giá trị P- values nhỏ hơn 0.05 và giá trị T- values lớn hơn 1.96 thì mối quan hệ thống kê có ý nghĩa.
Bảng 4: Kết quả kiểm định giả thuyết nghiên cứu
|
Giả thuyết |
Mối quan hệ |
Hệ số đường dẫn |
T Statistics |
P Values |
Kết quả |
|
H1 |
MT -> HA |
0.299 |
3.896 |
0.000 |
Chấp nhận |
|
H3 |
GS -> HA |
0.397 |
5.509 |
0.000 |
Chấp nhận |
|
H5 |
LR -> HA |
-0.099 |
1.457 |
0.145 |
Bác bỏ |
|
H6 |
MR -> HA |
0.122 |
2.033 |
0.043 |
Chấp nhận |
|
H8 |
PU -> HA |
0.495 |
5.127 |
0.000 |
Chấp nhận |
|
H9 |
CW -> HA |
0.777 |
11.894 |
0.000 |
Chấp nhận |
|
H10 |
ES -> HA |
0.590 |
5.691 |
0.000 |
Chấp nhận |
|
H11 |
IC -> BE |
0.379 |
2.956 |
0.003 |
Chấp nhận |
|
H12 |
HA -> BE |
0.567 |
4.387 |
0.000 |
Chấp nhận |
Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu bằng Smart PLS, N = 124
Hình 2: Kết quả Bootstrapping mô hình cấu trúc
Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu bằng Smart PLS, N = 124
Kết quả Bảng 4 và Hình 2 cho thấy:
Giả thuyết H1 – “Xu hướng thị trường có ảnh hưởng đến Ý định hành vi áp dụng tiêu chuẩn ESG ” được chấp nhận vì các giá trị kiểm định đều đạt yêu cầu, cụ thể: β1 = 0.299 > 0, t-value = 3.896 > 1.96, p-value = 0.000 < 0.05. Như vậy, Xu hướng thị trường có ảnh hưởng tích cực đến Ý định hành vi áp dụng tiêu chuẩn ESG của doanh nghiệp logistics Việt Nam.
Giả thuyết H3 – “Hỗ trợ từ chính phủ có ảnh hưởng đến Ý định hành vi áp dụng tiêu chuẩn ESG” được chấp nhận vì các kiểm định đều đạt yêu cầu như: giá trị β3 = 0.397 > 0, t-value = 5.509 > 1.96, p-value = 0.000 < 0.05. Vì vậy, Hỗ trợ từ chính phủ có ảnh hưởng tích cực đến ý định hành vi áp dụng tiêu chuẩn ESG của doanh nghiệp Logistics Việt Nam.
Giả thuyết H5 – “Trách nhiệm pháp luật có ảnh hưởng đến Ý định hành vi áp dụng tiêu chuẩn ESG” bị bác bỏ vì các giá trị kiểm định không đạt đạt yêu cầu, cụ thể: β5 = -0.099 < 0, t-value = 1.457 < 1.96, p-value = 0.145 > 0.05. Như vậy, Trách nhiệm pháp luật không có ảnh hưởng tích cực đến Ý định hành vi áp dụng tiêu chuẩn ESG của doanh nghiệp logistics Việt Nam.
Giả thuyết H6 – “Trách nhiệm đạo đức có ảnh hưởng đến Ý định hành vi áp dụng tiêu chuẩn ESG ” được chấp nhận vì các giá trị kiểm định đều đạt yêu cầu, cụ thể: β6 = 0.122 > 0, t-value = 2.033 > 1.96, p-value = 0.043 < 0.05. Như vậy, Trách nhiệm đạo đức có ảnh hưởng tích cực đến Ý định hành vi áp dụng tiêu chuẩn ESG của doanh nghiệp logistics Việt Nam.
Giả thuyết H8 – “Cảm nhận sự hữu ích có ảnh hưởng đến Ý định hành vi áp dụng tiêu chuẩn ESG ” được chấp nhận vì các giá trị kiểm định đều đạt yêu cầu, cụ thể: β8 = 0.495 > 0, t-value = 5.127 > 1.96, p-value = 0.000 < 0.05. Như vậy, Cảm nhận sự hữu ích có ảnh hưởng tích cực đến Ý định hành vi áp dụng tiêu chuẩn ESG của doanh nghiệp logistics Việt Nam.
Giả thuyết H9 – “Ý chí của CEO có ảnh hưởng đến Ý định hành vi áp dụng tiêu chuẩn ESG” được chấp nhận vì các kiểm định đều đạt yêu cầu như: giá trị β9 = 0.777 > 0, t-value = 11.894 > 1.96, p-value = 0.000 < 0.05. Vì vậy, Ý định của CEO có ảnh hưởng tích cực đến Ý định hành vi áp dụng tiêu chuẩn ESG của doanh nghiệp logistics Việt Nam.
Giả thuyết H10 – “Sự hài lòng của nhân viên có ảnh hưởng đến Ý định hành vi áp dụng tiêu chuẩn ESG” được chấp nhận vì các kiểm định đều đạt yêu cầu như: giá trị β10 = 0.590 > 0, t-value = 5.691> 1.96, p-value = 0.000 < 0.05. Như vậy, Sự hài lòng của nhân viên có ảnh hưởng tích cực đến Ý định hành vi áp dụng tiêu chuẩn ESG của doanh nghiệp logistics Việt Nam.
Giả thuyết H11 – “Khả năng áp dụng của doanh nghiệp có ảnh hưởng đến Hành vi áp dụng tiêu chuẩn ESG” được chấp nhận vì các giá trị kiểm định đều đạt yêu cầu, cụ thể: β11 = 0.379 > 0, t-value = 2.956 > 1.96, p-value = 0.003 < 0.05. Như vậy, Khả năng áp dụng của doanh nghiệp có ảnh hưởng tích cực đến Hành vi áp dụng tiêu chuẩn ESG của doanh nghiệp logistics Việt Nam.
Giả thuyết H12 – “Ý định hành vi áp dụng có ảnh hưởng đến hành vi áp dụng tiêu chuẩn ESG” được chấp nhận, vì các kiểm định đều đạt yêu cầu như: giá trị β12 = 0.567 > 0, t-value = 4.387 > 1.96, p-value = 0.000 < 0.05. Như vậy, Hỗ trợ từ chính phủ có ảnh hưởng tích cực đến Ý định hành vi áp dụng tiêu chuẩn ESG của doanh nghiệp logistics Việt Nam.
Đánh giá hệ số xác định
Kết quả phân tích hệ số R-Square hiệu chỉnh trong Bảng 5 cho thấy:
(1) Mức độ giải thích của biến trung gian HA (Ý định hành vi áp dụng) và Khả năng áp dụng của doanh nghiệp (IC) đối với biến phụ thuộc BE (Hành vi áp dụng) là 77.4%
(2) Mức độ giải thích của 7 biến độc lập là Xu hướng thị trường (MT), Hỗ trợ từ chính phủ (GS), Trách nhiệm pháp luật (LR), Trách nhiệm đạo đức (MR), Cảm nhận sự hữu ích (PU), Ý chí của CEO (CW), Sự hài lòng của nhân viên (ES) đối với biến trung gian Ý định hành vi áp dụng (HA) là 87.7%.
Bảng 5: Các hệ số xác định R- Square và R- Square hiệu chỉnh
|
R2 |
R2 hiệu chỉnh |
|
|
BE |
0.778 |
0.774 |
|
HA |
0.884 |
0.877 |
Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu bằng Smart PLS, N = 124
Giá trị effect size (f – Square)
Theo kết quả Bảng 6, có thể thấy: CW (Ý chí của CEO) có hệ số tác động 1.570, ES (Sự hài lòng của nhân viên) có hệ số tác động 1.300 và GS (Sự hỗ trợ của chính phủ) có hệ số tác động 0.527, tức là CW, ES và GS tác động ở mức lớn tới HA – Ý định hành vi áp dụng (f- Square ≥ 0.35); HA có hệ số tác động 0,683, chứng tỏ HA có tác động lớn tới BE (Hành vi áp dụng) và IC (Khả năng áp dụng của doanh nghiệp) có hệ số tác động 0.305, tức là IC có tác động trung bình tới BE (0.15 ≤ f- Square < 0.35). Trong khi đó, 3 biến độc lập LR (Trách nhiệm pháp luật), MR (Trách nhiệm đạo đức) và MT (Xu hướng thị trường) có hệ số tác động lần lượt là 0.023, 0.053 và 0.137, chứng tỏ các biến này có tác động khá nhỏ tới HA (0.02 ≤ f- Square < 0.15) (Cohen, 1988).
Bảng 6. Bảng tổng hợp giá trị f-Square của các biến độc lập
|
|
BE |
CW |
ES |
GS |
HA |
IC |
LR |
MR |
MT |
PU |
|
BE |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
CW |
|
|
|
|
1.570 |
|
|
|
|
|
|
ES |
|
|
|
|
1.300 |
|
|
|
|
|
|
GS |
|
|
|
|
0.527 |
|
|
|
|
|
|
HA |
0.683 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
IC |
0.305 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
LR |
|
|
|
|
0.023 |
|
|
|
|
|
|
MR |
|
|
|
|
0.053 |
|
|
|
|
|
|
MT |
|
|
|
|
0.137 |
|
|
|
|
|
|
PU |
|
|
|
|
0.323 |
|
|
|
|
|
Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu bằng Smart PLS, N = 124
KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Bài viết đã chỉ ra rằng các yếu tố được đưa ra trong mô hình đều có tác động đáng kể theo hướng tích cực tới ý định hành vi, từ đó ảnh hưởng tới hành vi áp dụng tiêu chuẩn ESG đó là: Xu hướng thị trường, Hỗ trợ từ chính phủ, Trách nhiệm đạo đức, Cảm nhận sự hữu ích, Ý chí của CEO, Sự hài lòng của nhân viên và Khả năng áp dụng của doanh nghiệp. Tuy nhiên, yếu tố Trách nhiệm pháp luật có tác động ngược chiều đến ý định hành vi áp dụng tiêu chuẩn ESG, nghĩa là Trách nhiệm pháp luật không phải nhân tố thúc đẩy doanh nghiệp Logistics thực hành tiêu chuẩn ESG. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, bài viết đề xuất một số khuyến nghị để nâng cao việc nhận thức và thúc đẩy việc thực hành ESG tại doanh nghiệp Logistics Việt Nam như sau:
Thứ nhất, Nhà nước cần hoàn thiện thể chế, chính sách liên quan đến việc áp dụng tiêu chuẩn ESG. Chính phủ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, tổ chức liên quan để triển khai hiệu quả các giải pháp phát triển ESG, đưa ra các chính sách, thể chế, cơ sở pháp lý rõ ràng để các bộ, ban, ngành trong lĩnh vực logistics có định hướng, mục tiêu và lộ trình rõ ràng để triển khai tiêu chuẩn ESG.
Thứ hai, nâng cao nhận thức của các bên liên quan về việc áp dụng tiêu chuẩn ESG. Cần nâng cao nhận thức của khách hàng sử dụng dịch vụ Logistics bền vững thông qua các nghị định, thông báo, thể chế của Nhà nước; và đẩy mạnh truyền thông thông qua các phương tiện truyền thông, tuyên truyền để khách hàng hiểu rõ tác động của hoạt động này đối với chuỗi cung ứng bền vững. Ngoài ra, việc nâng cao nhận thức của người lao động trong ngành Logistics cũng rất cần thiết vì họ trực tiếp hưởng chính sách hỗ trợ tích cực của doanh nghiệp trong trụ cột Xã hội. Vì vậy, Chính phủ nên phối hợp với các hiệp hội Logistics, các trường đại học, trung tâm đào tạo tổ chức các hoạt động đào tạo, hội thảo về tiêu chuẩn ESG. Từ đó, người lao động có cái nhìn sâu hơn về bộ tiêu chuẩn này.
Thứ ba, nâng cao năng lực của quản lý doanh nghiệp về áp dụng ESG. Theo như kết quả nghiên cứu, ý chí và cam kết của đội ngũ quản lý là yếu tố tác động mạnh nhất mức độ thành công thực hành ESG. Vì vậy, cần có các chương trình đào tạo chuyên sâu cho ban lãnh đạo doanh nghiệp nhằm thay đổi tư duy lãnh đạo và trong quá trình xem ESG như một kim chỉ nam phát triển dài hạn. Bên cạnh đó, ban lãnh đạo nên tích cực tham gia vào các hội thảo chuyên ngành để cập nhật xu hướng về phát triển ESG trong lĩnh vực Logistics, kết nối với các chuyên gia, đối tác chiến lược để đưa ra chính sách phát triển phù hợp cho tổ chức về ứng dụng tiêu chuẩn ESG tại doanh nghiệp.
Thứ tư, chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ vào quy trình vận hành của doanh nghiệp. Điều này giúp doanh nghiệp Logistics cải thiện khả năng phục hồi và sức chống chọi của doanh nghiệp trên thị trường đầy cạnh tranh. Doanh nghiệp Logistics nên ứng dụng những công nghệ như AI, IoT, Blockchain,…để thu hút sự quan tâm của khách hàng, nhà cung cấp và đối tác quốc tế, từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh và khả năng áp dụng tiêu chuẩn ESG của doanh nghiệp logistics./.
Tài liệu tham khảo
[1] Aibar-Guzmán et al (2021), Is it necessary to centralize power in the CEO to ensure environmental innovation? Administrative sciences, 11(1), 27.
[2] Alayón, C. L., Säfsten, K., and Johansson, G. (2022), Barriers and enablers for the adoption of sustainable manufacturing by manufacturing SMEs. Sustainability, 14(4), 2364.
[3] B. J. Weiner (2020), "A theory of organizational readiness for change," in Handbook on implementation science: Edward Elgar Publishing, pp. 215-232.
[4] Carroll (1991), The pyramid of corporate social responsibility: Toward the moral management of organizational stakeholders, Business horizons, 34(4), 39-48.
[5] Carter, C. R., and Rogers, D. S. (2008). A framework of sustainable supply chain management: moving toward new theory. International journal of physical distribution and logistics management, 38(5), 360-387.
[6] Cohen, J. (1988). Statistical power analysis for the behavioral sciences.
[7] Galbreath, J. (2013), ESG in focus: The Australian evidence, Journal of business ethics, 118, 529-541.
[8] Garson, G. D. (2016), Partial Least Squares (PLS-Sem).
[9] Ghosh, D et al., (2014), Linking perceived corporate social responsibility and intention to quit: The mediating role of job embeddedness, Vision, 18(3), 175-183.
[10] G. S. I. Alliance (2019), Global sustainable investment review 2018.
[11] Hair Jr, J. F., Howard, M. C., and Nitzl, C. (2020), Assessing measurement model quality in PLS-SEM using confirmatory composite analysis, Journal of business research, 109, 101-110.
[12] Hair Jr, J. F., Matthews, L. M., Matthews, R. L., and Sarstedt, M. (2017), PLS-SEM or CB-SEM: updated guidelines on which method to use, International Journal of Multivariate Data Analysis, 1(2), 107-123.
[13] Hair, J., Joe F, Sarstedt, M., Matthews, L. M., and Ringle, C. M. (2016), Identifying and treating unobserved heterogeneity with FIMIX-PLS: part I–method, European business review, 28(1), 63-76.
[14] Hair, J. F. J., H., G. T. M., Ringle, C., and Sarstedt, M. . (2014), A Primer on Partial Least Squares Structural Equation Modeling (PLS-SEM).
[15] Hair, J. F., Anderson, R. E., Tatham, R. L., and Black, W. C. (2010), Multivariate Data Analysis: A Global Perspective 7 Pearson.
[16] Hair Jr, J. F., Hult, G. T. M., Ringle, C. M., Sarstedt, M., Danks, N. P., and Ray, S. (2013), Partial least squares structural equation modeling (PLS-SEM) using R: A workbook, Springer Nature.
[17] Hair Jr, J., Page, M., and Brunsveld, N. (2019), Essentials of business research methods, Routledge.
[18] Henseler, J., and Sarstedt, M. (2013), Goodness-of-fit indices for partial least squares path modeling, Computational statistics, 28, 565-580.
[19] Hock, M., and Ringle, C. M. (2010), Local strategic networks in the software industry: An em[2-pirical analysis of the value continuum, International Journal of Knowledge Management Studies, 4(2), 132-151.
[20] K. Hummel and C. Schlick, (2016), The relationship between sustainability performance and sustainability disclosure–Reconciling voluntary disclosure theory and legitimacy theory, Journal of accounting and public policy, 35(5), 455-476.
[21] Lê Thị Kim Nhung et al (2023), Ảnh hưởng của nhận thức đến hành vi thực hành ESG trong hoạt động tại các ngân hàng thương mại Việt Nam.
[22] Limayem, M et al (2000), What makes consumers buy from Internet? A longitudinal study of online shopping, IEEE Transactions on systems, man, and Cybernetics-Part A: Systems and Humans, 30(4), 421-432.
[23] Moon, J et al (2001), Extending the TAM for a World-Wide-Web context, Information and Management, 38, 217-230.
[24] N. J.-M. Lee Ho -Seok, Lee Sung -Ho, Park Jae-chun (2021), Nghiên cứu về hiệu suất của SME CSR: Chuyển đổi sang ESG ngoài CSR, Entrpreneurship and ESG Research.
[25] N. T. Q. Như (2024), Những bước đi tiên phong trong hành trình tìm động lực tăng trưởng từ ESG, Tin tức thông tấn xã Việt Nam.
[26] Parast, M et al (2012), Corporate social responsibility, benchmarking, and organizational performance in the petroleum industry: A quality management perspective, International Journal of Production Economics, 139(2), 447-458.
[27] Park, D. et al (2024), Implementation of Environment, Social, and Governance (ESG): Case of Korean Global Firms.
[28] Shamsuddoha, A., and Yunus Ali, M. (2006), Mediated effects of export promotion programs on firm export performance, Asia Pacific Journal of Marketing and Logistics, 18(2), 93-110.
[29] Taylor, S., and Todd, P. (1995), Decomposition and crossover effects in the theory of planned behavior: A study of consumer adoption intentions, International journal of research in marketing, 12(2), 137-155.
[30] Trang, Đ. T. T., and Linh, N. K. (2024), Hoạt động logistics xanh tại Việt Nam: Thực trạng, cơ hội và giải pháp thúc đẩy.
[31] Turner, K. et al (2020), Organizational readiness for change: What we know, what we think we know, and what we need to know, Implementation Science 3.0, 101-144.
[32] Villanova, P. et al. (1994), The validity of a measure of job compatibility in the prediction of job performance and turnover of motion picture theater personnel, Personnel Psychology, 47(1), 73-90.
[33] Yang, H. (2024), Integrating ESG Principles in Green Supply Chain Management: Challenges and Opportunities, 2024 International Conference on Applied Economics, Management Science and Social Development (AEMSS 2024).
| Ngày nhận bài: 08/02/2025; Ngày phản biện: 15/02/2025; Ngày duyệt đăng: 26/02/2025 |

Bình luận