Cần 4 gói hỗ trợ

“Chiến lược tài chính phải bám sát chiến lược phục hồi kinh tế sau đại dịch. Chiến lược này là trụ cột quan trọng bậc nhất để Việt Nam cất cánh trong 10 năm tới…”, GS.TS Trần Ngọc Anh, Đại học Indiana (Hoa Kỳ) chia sẻ tại Diễn đàn tài chính Việt Nam 2021 với chủ đề: “Chiến lược tài chính giai đoạn 2021-2030 và các giải pháp phục hồi, phát triển kinh tế Việt Nam”, do Bộ Tài chính tổ chức hôm nay (ngày 16/11).

Chính sách tài khoá phải “tiếp sức” nhiều hơn không chỉ cho phục hồi kinh tế
Các chuyên gia toạ đàm tại Diễn đàn tài chính Việt Nam 2021. Ảnh: Tạp chí Tài chính

Ông Ngọc Anh cho rằng, để phục hồi kinh tế, chính sách tài khoá cần góp sức và đóng vai trò quan trọng trong triển khai 4 gói hỗ trợ.

Đầu tiên là gói hỗ trợ về y tế, vì đây là vấn đề gốc để kiểm soát tốt dịch bênh. Bài học từ thế giới cho thấy, để phục hồi nền kinh tế, các nước chi cho gói hỗ trợ về y tế tương đương khoảng trên dưới 1% GDP, nhưng Việt Nam mới ở mức từ 0,3-0,4% GDP.

“Trong bối cảnh dịch bệnh còn diễn biến phức tạp, tôi mong nguồn lực chi cho y tế phải nhanh và mạnh hơn. Theo đó, ngoài đầu tư cấp bách cho phát triển ngành công nghiệp y tế với trọng tâm là đầu tư cho nghiên cứu, sản xuất vaccine trong nước; sản xuất trang thiết bị, vật tư y tế (vừa qua quá phụ thuộc vào nhập khẩu); còn là đầu tư cho phát triển hệ thống bệnh viện, cơ sở y tế; hỗ trợ thỏa đáng cho cán bộ y tế bởi cơ chế hỗ trợ hiện tại chưa đủ…”, ông Ngọc Anh đề xuất.

Gói hỗ trợ thứ hai cần triển khai là tiếp sức cho doanh nghiệp trong bối cảnh nhiều công ty phải đóng cửa. Bài học hỗ trợ của thế giới cho thấy có 2 cách: giảm thuế, phí và hỗ trợ nguồn lực tài chính trực tiếp. Do các nước đang phát triển thường có hệ thống quản trị hạn chế, nên cách giảm thuế, phí hiệu quả hơn vì minh bạch và nhanh hơn nhiều so với các hình thức hỗ trợ nguồn lực trực tiếp phải thông qua quá trình phê duyệt, mà ở đó sự quan liêu của cơ quan quản lý dễ khiến nguồn lực hỗ trợ chậm đến doanh nghiệp, đồng thời tạo ra nguy cơ thất thoát nguồn lực. Do đó, Việt Nam nên chọn cách giảm thuế, phí để tiếp sức cho doanh nghiệp.

Theo GS.TS Trần Ngọc Anh, trong bối cảnh dịch bệnh còn phức tạp, Bộ Tài chính cần tìm ra cơ chế cho vận hành linh hoạt quỹ dự phòng để phản ứng nhanh với các diễn biến khó lường của dịch bệnh, chứ hiện có quỹ nhưng vướng mắc nhiều, nên không hoạt động hiệu quả…

Gói hỗ trợ thứ ba hướng tới người dân, người lao động. Vừa qua, Việt Nam đã hỗ trợ cho các hộ nghèo, nhưng chưa hướng tới khoảng 35% lao động tự do, trong khi họ là đối tượng bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi đại dịch. Để hỗ trợ nhóm lao động tự do, các nước thường sử dụng dữ liệu từ thẻ căn cước công dân và hệ thống công nghệ. Cách làm này không tránh khỏi thất thoát nguồn lực, nhưng vì lợi ích của nhóm đối tượng này, nên cần chấp nhận một tỷ lệ thất thoát để triển khai được. Ở Việt Nam có tâm lý ngại rủi ro, vì làm được không sao, nếu xảy ra thất thoát thì bị truy trách nhiệm cá nhân…

Thứ tư, Việt Nam cần có gói hỗ trợ tài khóa mang tính trung hạn để đầu tư vào một số lĩnh vực, ngành có sự thất bại của thị trường, để tiếp sức cho sự phục hồi của nền kinh tế như: công nghiệp y tế, kinh tế số, công nghệ xanh…

Đồng tình với cần thúc đẩy đầu tư công, nhưng ông Sebastian Paust, Tham tán, Trưởng phòng Hợp tác Phát triển, Đại sứ quán Đức, cho rằng, trong bối cảnh ảnh hưởng của dịch Covid-19, Việt Nam cần huy động đầu tư từ khu vực tư nhân nhiều hơn, đồng thời cần có chiến lược tăng trưởng xanh, phát triển hạ tầng gắn với phát triển bền vững; thực hiện cải cách chính sách thuế, thu ngân sách hiệu quả hơn..., qua đó đảm bảo việc điều hành và thực thi chính sách tài khoá linh hoạt, bền vững hơn...

Nên xoá tư duy cũ, không chỉ về chính sách tài khoá

Để nền kinh tế phục hồi trong bối cảnh dịch bệnh còn phức tạp, ý kiến từ chuyên gia cho rằng, cần có góc nhìn mới rộng hơn, đột phá hơn không chỉ với chính sách tài khoá.

Chính sách tài khoá phải “tiếp sức” nhiều hơn không chỉ cho phục hồi kinh tế
Theo TS. Vũ Thành Tự Anh, Việt Nam cần hình thành cơ chế nhằm huy động hiệu quả hơn các nguồn lực từ thị trường và xã hội để hỗ trợ bổ sung cho sự phát triển. Ảnh: Fulbright Việt Nam

Theo TS. Vũ Thành Tự Anh, Giám đốc Trường Chính sách công và Quản lý, Đại học Fulbright Việt Nam, có 4 điểm quan trọng mà Việt Nam cần tập trung cải cách.

Đầu tiên, cần khắc phục tình trạng hợp tác liên vùng kinh tế kém hiệu quả, do các vùng có tính phân tán cao. Nguyên nhân cơ bản của tình trạng này là do địa giới hành chính cấp tỉnh bị biến thành địa giới kinh tế. Điều này dẫn đến sự cạnh tranh hơn là hợp tác giữa các tỉnh, thành phố, nên không những không phát huy được tiềm năng, thế mạnh của mỗi địa phương, mà còn triệt tiêu một số nguồn lực.

Thứ nữa, cơ chế đặc thù cho 8 tỉnh, thành phố, tuy trong ngắn hạn làm gia tăng không gian chính sách cho các địa phương, nhưng một khi các tỉnh đua nhau xin cơ chế đặc thù, thì dần dần không còn đặc thù nữa. Điều này dẫn đến tạo ra tầng chia cắt tiếp theo giữa các địa phương, nên cần có giải pháp hiệu quả, phù hợp.

Tiếp đến, Việt Nam đang phân chia ngân sách theo 63 địa phương, nên tạo ra hệ thống ngân sách phức tạp, kém minh bạch. Hệ quả của tình trạng này là tác động không tích cực đến động cơ gia tăng thu ngân sách ở các địa phương phát triển, đồng thời tạo ra nguy cơ những địa phương thu ngân sách kém thì tìm cách giấu nguồn thu để được ngân sách trung ương tài trợ…

“Trong khi đó, bài học từ Trung Quốc cho thấy, trước đây họ cũng phân chia ngân sách theo cách của Việt Nam hiện nay, nhưng từ năm 1994 họ phân chia ngân sách theo sắc thuế. Theo đó, thuế xuất nhập khẩu thì trung ương giữ 100%; nhưng thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thì địa phương được giữ 40%. Hướng cải cách này đã tạo ra sự minh bạch. Đây là một trong những cải cách rất thành công ở Trung Quốc, vì nó giúp ngân sách trung ương tăng vọt, qua đó, gia tăng nguồn lực đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng, công nghệ, quốc phòng…”, ông Tự Anh cho hay.

Cuối cùng, với trình độ của một quốc gia đang phát triển, Việt Nam cần hình thành cơ chế không chỉ đơn thuần là chính sách tài khoá, để huy động hiệu quả hơn các nguồn lực từ thị trường và xã hội để hỗ trợ cho sự phát triển của đất nước./.