Tài chính xanh: Vai trò then chốt trong việc đổi mới mô hình tăng trưởng xanh
Thông tin trên được TS. Nguyễn Thanh Nga phát biểu tại Diễn đàn "Hiện thực hóa Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh tại Việt Nam: Thúc đẩy dòng vốn xanh" do Tạp chí Kinh tế và Dự báo tổ chức vào sáng hôm nay, ngày 10/9/2024.
Thể chế - chính sách về phát triển tài chính xanh được hoàn thiện
Theo TS. Nguyễn Thanh Nga, với mục tiêu “Tăng trưởng xanh góp phần thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nhằm đạt được thịnh vượng về kinh tế, bền vững về môi trường và công bằng về xã hội; hướng tới nền kinh tế xanh, trung hòa các-bon và đóng góp vào mục tiêu hạn chế sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu”, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1658/QĐ-TTg, ngày 01/10/2021 phê duyệt “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050”.
TS. Nguyễn Thanh Nga, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và chính sách tài chính, Bộ Tài chính phát biểu tại Diễn đàn |
Để thúc đẩy tăng trưởng xanh (TTX) cần có nguồn lực tài chính. Theo bà Nga, thì “tài chính xanh là các dòng tài chính (ngân hàng, tín dụng vi mô, bảo hiểm, đầu tư) từ các khu vực kinh tế khác nhau (tư nhân, nhà nước và các khu vực phi lợi nhuận) phục vụ các ưu tiên và mục tiêu tăng trưởng bền vững cho nền kinh tế”.
Ngày 22/7/2022, Chính phủ ban hành Quyết định số 882/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về TTX giai đoạn 2021-2030 (Kế hoạch hành động quốc gia), kèm theo danh mục nhiệm vụ, hoạt động triển khai thực hiện Kế hoạch hành động quốc gia.
Trong đó, có Mục 4 (Huy động nguồn lực tài chính và thúc đẩy đầu tư cho TTX), gồm các tiểu mục liên quan đến nhiệm vụ hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến tài chính xanh, như: (i) Xây dựng và hoàn thiện chính sách về thu, chi ngân sách nhà nước (NSNN) đối với các hoạt động hướng tới TTX, chuyển đổi xanh; (ii) Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho trái phiếu xanh (trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu doanh nghiệp), bảo hiểm xanh (gồm xây dựng danh mục các sản phẩm bảo hiểm xanh, nhằm bảo hiểm trách nhiệm ô nhiễm môi trường đối với các ngành có rủi ro môi trường cao, sản phẩm bảo hiểm rủi ro khí hậu); (iii) Phát triển thị trường các-bon tại Việt Nam, gồm xây dựng, thành lập sàn giao dịch tín chỉ các-bon theo cơ chế thị trường; nghiên cứu cơ chế quản lý tài chính cho hoạt động thị trường các-bon; xây dựng cơ chế và cách thức vận hành thị trường các-bon, quy định kết nối sàn giao dịch tín chỉ các-bon trong nước với thị trường các-bon khu vực và thế giới.
Nhằm thực hiện Chiến lược quốc gia về TTX giai đoạn 2021-2030, ngày 15/8/2024, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 1934/QĐ-BTC phê duyệt Kế hoạch hành động của Bộ Tài chính thực hiện Chiến lược quốc gia về TTX giai đoạn 2021-2030.
Bên cạnh đó, huy động nguồn lực tài chính và thúc đẩy đầu tư cho TTX cũng là một định hướng được chú trọng trong Chiến lược tài chính đến năm 2030 (Quyết định số 368/QĐ-TTg ngày 21/3/2022). Trong đó, Chiến lược nêu rõ quan điểm, mục tiêu về cân đối nguồn lực phát triển hài hòa giữa kinh tế với xã hội và bảo vệ môi trường (BVMT), thích ứng với biến đổi khí hậu. Để thực hiện các quan điểm, mục tiêu này, Chiến lược tài chính đến năm 2030 cũng đề ra những giải pháp hướng đến huy động nguồn lực trong và ngoài nước cho các hoạt động kinh tế xanh và BVMT; tạo điều kiện thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính, giải quyết hài hòa các vấn đề phát triển kinh tế, xã hội và môi trường; phát triển thị trường vốn, thị trường bảo hiểm xanh...
Huy động tối đa nguồn lực và thu hút đầu tư cho các hoạt động kinh tế xanh
Theo đại diện Bộ Tài chính, trong thời gian vừa qua, thể chế - chính sách tài chính được hoàn thiện nhằm tạo điều kiện để huy động nguồn lực và thu hút đầu tư cho các hoạt động kinh tế xanh, ứng phó với biến đổi khí hậu và BVMT, từ đó góp phần đổi mới mô hình tăng trưởng xanh. Cụ thể như sau:
Đối với chính sách thu NSNN
- Chính sách thu ngân sách phát huy hiệu quả, điều tiết hành vi theo hướng khuyến khích sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên và BVMT. Chính sách thuế BVMT trong thời gian qua đã góp phần thay đổi nhận thức, hành vi của tổ chức, cá nhân trong sản xuất và tiêu dùng nhằm BVMT. Kể từ khi đưa vào áp dụng năm 2012, thuế BVMT đang dần trở thành một sắc thuế quan trọng trong hệ thống chính sách thuế của Việt Nam từ giác độ tạo nguồn thu cho NSNN.
Chính sách thuế tài nguyên có vai trò quan trọng thúc đẩy quản lý nhà nước đối với hoạt động khai thác và sử dụng tài nguyên, hạn chế hoạt động khai thác tràn lan và khai thác không phép tài nguyên vì mục tiêu phát triển bền vững; trong đó, chính sách thuế phù hợp đối với tài nguyên nước và đảm bảo khả năng chi trả cho tất cả mọi người.
- Chính sách động viên NSNN được điều chỉnh kịp thời, linh hoạt, ứng phó với dịch bệnh, hỗ trợ doanh nghiệp và người dân có thêm nguồn lực cho đầu tư và tiêu dùng; qua đó, góp phần thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển. Chính sách thu NSNN tiếp tục thực hiện theo hướng miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí và tiền thuê đất (chẳng hạn thuế suất thuế giá trị gia tăng (GTGT) giảm từ 10% xuống còn 8% từ ngày 01/02/2022 đến hết 31/12/2024 đối với hầu hết các mặt hàng đang áp dụng mức thuế suất thuế GTGT 10%). Bên cạnh đó, các chính sách miễn, giảm thuế (thuế GTGT, lệ phí trước bạ...) còn góp phần kích cầu tiêu dùng, hỗ trợ cho mức tăng trưởng GDP, cũng như thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội khác.
Nhờ đó, nguồn thu quan trọng được đảm bảo và ổn định cho NSNN theo hướng bền vững hơn, nguồn thu thuế từ sản xuất, kinh doanh trong nước tăng dần và ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong tổng thu NSNN. Năm 2023, mặc dù tiếp tục thực hiện nhiều chính sách miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí và tiền thuê đất, với tổng số tiền đã miễn, giảm, gia hạn đạt khoảng 191,5 nghìn tỷ đồng (miễn, giảm khoảng 76,6 nghìn tỷ đồng; gia hạn khoảng 114,9 nghìn tỷ đồng), nhưng tổng thu ngân sách nhà nước cả năm 2023 ước đạt 1.754,1 nghìn tỷ đồng, vượt 8,2% dự toán, chủ yếu do tăng thu từ một số khoản thu quan trọng như thu từ khu vực doanh nghiệp nhà nước, thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, các khoản thu về nhà đất (trừ thu tiền sử dụng đất).
Đối với chính sách chi NSNN
Trong thời gian qua, các quy định và chính sách về chi ngân sách nhà nước ưu tiên cho TTX đã ngày càng được hoàn thiện, đặc biệt được ưu tiên quy định rõ tại các văn bản Luật, như: Luật BVMT, Luật Khoa học và công nghệ, Luật chuyển giao công nghệ... và các quy định về phân bổ ngân sách nhà nước theo giai đoạn 2016-2020, 2021-2030 đảm bảo nguồn lực ưu tiên cho các hoạt động TTX. Cụ thể như: Một là, hoàn thiện các quy định ưu tiên chi đầu tư và chi thường xuyên cho mục tiêu TTX; Hai là, xây dựng các chương trình, chiến lược và các kế hoạch hành động quốc gia liên quan TTX như Chiến lược quốc gia về TTX, Kế hoạch hành động quốc gia về TTX; Ba là, hoàn thiện các quy định về mua sắm công trong sử dụng các sản phẩm dán nhãn năng lượng, dán nhãn xanh BVMT. Luật BVMT năm 2020 khuyến khích người đứng đầu cơ quan, đơn vị sử dụng.
Chính sách phát triển thị trường chứng khoán xanh từng bước được hình thành
Từ năm 2015 tới nay, thị trường chứng khoán xanh tại Việt Nam đã hình thành và phát triển, bao gồm cả cổ phiếu xanh và trái phiếu xanh. Theo TS. Nga, việc thiết lập khung pháp lý và chính sách phát triển thị trường chứng khoán xanh được thể hiện ở:
Một là, nghiên cứu thiết lập khung tài chính xanh cho hoạt động trên thị trường vốn như các quy định, điều kiện khi niêm yết cổ phiếu (niêm yết xanh), báo cáo (trong báo cáo bền vững) và trong giám sát (theo các tiêu chí tài chính xanh).
Hai là, chỉ số phát triển bền vững toàn thị trường được xây dựng và áp dụng: cuối tháng 3/2017, HOSE công bố Chỉ số Phát triển bền vững (Việt Nam Sustainability Index - VNSI) và chính thức đưa vào vận hành từ cuối tháng 7/2017.
Ba là, ban hành quy chế, hướng dẫn về công bố báo cáo quản trị rủi ro môi trường và xã hội (Môi trường (E), Xã hội (S), Quản trị (G)) đối với các doanh nghiệp niêm yết; Áp dụng tiêu chuẩn tối thiểu về ESG để cho phép doanh nghiệp lên sàn (Thông tư số 96/2020/TT-BTC ngày 16/11/2020 hướng dẫn công bố thông tin trên thị trường chứng khoán). Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán đến năm 2030 đề ra mục tiêu nâng cao chất lượng báo cáo thường niên của công ty đại chúng, hướng tới yếu tố phát triển bền vững dựa trên áp dụng tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị doanh nghiệp (tiêu chuẩn ESG) theo thông lệ quốc tế.
Bốn là, hoàn thiện các quy định về phát hành trái phiếu xanh tại Luật BVMT 2020, Nghị định số 08/2022/NĐ-CP hướng dẫn Luật BVMT, và các Nghị định quy định phát hành, đăng ký, lưu ký và niêm yết và giao dịch công cụ nợ. Chính sách phát triển trái phiếu xanh đã được thể hiện tại Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán đến năm 2030 ngày 29/12/2023 do Thủ tướng Chính phủ ban hành.
Năm là, cam kết thúc đẩy phát triển bền vững trên thị trường chứng khoán với vai trò là thành viên của Sáng kiến các Sở Giao dịch Chứng khoán phát triển bền vững (SSE) thuộc Liên hiệp quốc.
Sáu là, các chính sách ưu đãi với phát triển thị trường chứng khoán xanh được ban hành: Theo Thông tư số 101/2021/TT-BTC, chủ thể phát hành và nhà đầu tư trái phiếu xanh được hưởng ưu đãi giảm 50% mức giá dịch vụ đăng ký niêm yết, quản lý niêm yết, giao dịch, đăng ký chứng khoán, hủy đăng ký chứng khoán một phần, lưu ký chứng khoán. Bên cạnh đó, Bộ Tài chính dự kiến trình các cấp có thẩm quyền ban hành các chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân đối với các nguồn thu nhập phát sinh từ trái phiếu xanh trong quá trình sửa đổi Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật Thuế thu nhập cá nhân và các văn bản hướng dẫn.
Với những chính sách trên, thị trường chứng khoán xanh ngày càng mở rộng về quy mô. Doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán đang thể hiện mức độ cam kết cao đối với thực hiện cam kết ESG. Theo báo cáo của PWC (2024), tỷ lệ cam kết ESG của các doanh nghiệp niêm yết là 93%, vượt mức trung bình của Việt Nam là 80%. Hơn một nửa doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam (58%) đang và sẽ trong giai đoạn lập kế hoạch trong 2-4 năm tới.
Việt Nam là thị trường phát hành nợ xanh lớn thứ hai trong ASEAN, đạt 1 tỷ USD, chỉ sau Singapore, trong đó phần lớn trái phiếu và khoản vay xanh trong năm 2021 đến từ ngành vận tải và năng lượng. Vào tháng 7/2022, Công ty Tài chính cổ phần Điện lực - EVNFinance đã phát hành 1.725 tỷ đồng trái phiếu xanh kỳ hạn 10 năm với lãi suất 6,7%/năm, được bảo lãnh một phần bởi GuarantCo - Công ty dịch vụ bảo lãnh đa quốc gia.
Đa dạng hóa các chính sách tài chính xanh
Ngoài các chính sách tài chính nêu trên, đại diện Bộ Tài chính cho biết, một số chính sách tài chính xanh, như: chính sách phát triển bảo hiểm xanh, chính sách phát triển thị trường tín chỉ các-bon cũng được xây dựng và triển khai góp phần đổi mới mô hình TTX, như; Chính sách phát triển bảo hiểm xanh; Chính sách phát triển thị trường tín chỉ các-bon.
Thách thức đặt ra đối với chính sách tài chính xanh
Mặc dù đạt được một số kết quả tích cực nói trên, nhưng theo Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và chính sách tài chính, thực tiễn triển khai áp dụng chính sách tài chính - ngân sách liên quan đến TTX ở Việt Nam cũng bộc lộ một số điểm hạn chế. Cụ thể như sau:
Một là, chính sách thu đối với hoạt động gây ô nhiễm môi trường vẫn còn có khoảng cách tương đối lớn giữa mục tiêu, yêu cầu chính sách đặt ra và hiệu quả thực tế của chính sách khi triển khai thực hiện.
Hai là, thời gian qua đã có sự ưu tiên nguồn lực cho mục tiêu TTX, tuy nhiên, thực tế nguồn lực ngân sách nhà nước chỉ đáp ứng được phần nào cho các hoạt động TTX. Theo đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nguồn lực của ngân sách nhà nước chỉ đáp ứng khoảng 25% yêu cầu về biến đổi khí hậu và TTX.
Ba là, tuy Việt Nam đã có quy định về ưu tiên mua sắm công xanh trong Luật Đấu thầu năm 2023, tuy nhiên, hệ thống văn bản hướng dẫn quá trình thực hiện mua sắm công hiện nay chưa được hoàn thiện. Cơ chế công nhận, giám sát, đánh giá nhà thầu đáp ứng tiêu chí xanh chưa hoàn thiện. Cả 3 loại nhãn phổ biến về BVMT tại Việt Nam hiện nay là: nhãn xanh, nhãn tiết kiệm năng lượng và nhãn sinh thái đều chưa được quy định cụ thể là tiêu chí trong xét chọn mua sắm công.
Bốn là, sự phát triển của thị trường chứng khoán xanh tại Việt Nam còn chậm so với các thị trường trong khu vực như Indonesia, Thái Lan, Malaysia và quy mô chưa tương xứng với tiềm năng.
Năm là, việc phát triển bảo hiểm xanh ở Việt Nam còn chậm, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu về phát triển kinh tế nhanh và bền vững. Hiện nay, các sản phẩm bảo hiểm được cung cấp trên thị trường Việt Nam chủ yếu là sản phẩm bảo hiểm truyền thống. Các tổ chức và cá nhân tham gia bảo hiểm trên thị trường Việt Nam hầu hết là khách hàng của những sản phẩm truyền thống này. Ngoài ra, sản phẩm bảo hiểm xanh mà các doanh nghiệp cung cấp chỉ mới dừng lại ở loại hình bảo hiểm trách nhiệm môi trường, chưa đa dạng về sản phẩm.
Triển khai toàn diện các định hướng và giải pháp tài chính xanh để đổi mới mô hình TTX
Theo TS. Nguyễn Thanh Nga, trong bối cảnh hiện tại, cần xây dựng và triển khai toàn diện các định hướng và giải pháp tài chính xanh để đổi mới mô hình TTX. Đặc biệt, cần tập trung vào việc nâng cao khả năng huy động và sử dụng các công cụ tài chính xanh, đồng thời đảm bảo đầu tư hiệu quả.
Thứ nhất, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung theo hướng mở rộng đối tượng chịu thuế BVMT nhằm bao phủ được các nguồn gây tổn hại cho môi trường.
Thuế BVMT cần phải hướng đến các chủ thể gây ô nhiễm, các hành vi ô nhiễm chính xác nhất, bao quát được các nguồn gốc ô nhiễm; xác định mức thuế suất phù hợp đối với các loại hàng hóa thuộc diện chịu thuế BVMT, đảm bảo thực hiện hiệu quả nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”.
Ngoài ra, cần rà soát tổng thể các chính sách ưu đãi về thuế, dành sự ưu tiên lớn hơn cho các dự án TTX, BVMT và ứng phó biến đổi khí hậu. Đây là những lĩnh vực khi được đầu tư sẽ tạo ra các “ngoại ứng tích cực” cho nền kinh tế trong việc thực hiện các mục tiêu về TTX.
Thứ hai, tăng chi thường xuyên cho sự nghiệp BVMT vì mục tiêu TTX. Nguồn để tăng chi cho BVMT là việc tăng cường huy động nguồn thu qua các sắc thuế BVMT, phí BVMT, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế tài nguyên. Về cơ bản và lâu dài, nguồn lực tài chính cho BVMT phải dựa vào đầu tư, đóng góp của những người khai thác, sử dụng môi trường (doanh nghiệp, dân cư).
Rà soát đầu tư công làm nền tảng, cơ sở cho huy động các nguồn vốn khác cho đầu tư TTX. Rà soát, phối hợp các chương trình, đề án, nguồn vốn (ODA, đầu tư tư nhân..) có mục tiêu liên quan đến TTX tăng cường hiệu quả chính sách.
Thứ ba, hoàn thiện các quy định về mua sắm công xanh, chẳng hạn hoàn thiện các quy định ưu tiên mua sắm sản phẩm dán nhãn sinh thái, nhãn năng lượng trong Luật Đấu thầu, Luật đầu tư công hoặc ban hành quy chế mua sắm công xanh đối với các sản phẩm thân thiện với môi trường; trong đó, (i) quy định rõ các đối tượng sản phẩm bắt buộc thực hiện mua sắm công xanh, các sản phẩm xanh được ưu tiên mua sắm, các ưu đãi khuyến khích đối với hoạt động mua sắm các sản phẩm xanh; (ii) quy định cơ chế báo cáo, giám sát hàng năm đối với hoạt động mua sắm công xanh.
Thứ tư, triển khai đồng bộ giải pháp hỗ trợ các cấu phần của thị trường chứng khoán xanh phát triển. Cụ thể, (i) Đối với trái phiếu xanh: xây dựng Đề án phát hành thí điểm trái phiếu Chính phủ xanh tại thị trường trong nước, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trước khi triển khai để đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư, góp phần đa dạng hóa các sản phẩm TPCP trên thị trường; (ii) Đối với cổ phiếu xanh: Hỗ trợ và đào tạo các công ty niêm yết và công ty đại chúng về công bố các thông tin liên quan đến phát triển bền vững nhằm đánh giá hiệu quả, chất lượng hoạt động phát triển bền vững. Bên cạnh đó, cần xây dựng năng lực cho các thành viên thị trường, trong đó quan trọng là các doanh nghiệp tư vấn trong nước có thể cung cấp dịch vụ đánh giá độc lập đối với các dự án xanh sử dụng nguồn thu từ vốn nợ xanh.
Thứ năm, để hỗ trợ thị trường bảo hiểm xanh phát triển an toàn, bền vững, hiệu quả, và đạt được mục tiêu phát triển bảo hiểm xanh như đề ra tại Chiến lược Phát triển thị trường bảo hiểm đến năm 2030.
Thứ sáu, hoàn thiện hành lang pháp lý cho phát triển thị trường tín chỉ các-bon. Thúc đẩy xây dựng sàn giao dịch tín chỉ carbon cùng với quy chế tổ chức, vận hành để thị trường trong nước chính thức hoạt động, kết nối với thị trường khu vực, thế giới./.
Bình luận