Chính sách tiền tệ phục hồi nền kinh tế vĩ mô – kinh nghiệm quốc tế và hàm ý chính sách cho Việt Nam
TS. Nguyễn Danh Nam – Trường Đại học Thành Đông
Email: namnd@thanhdong.edu.vn
Tóm tắt:
Đại dịch COVID-19 đã ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế, xã hội và môi trường. Nó là cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng nhất từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai và đang làm trật tự thế giới có sự biến động mạnh mẽ. Bài viết đưa ra cái nhìn tổng quan về chính sách tiền tệ và phân tích kinh nghiệm của Ba Lan và Thái Lan đối với chính sách tiền tệ phục hồi nền kinh tế vĩ mô trong bối cảnh sau cuộc khủng hoảng COVID-19. Dựa vào kinh nghiệm của Ba Lan và Thái Lan một số gợi ý quan trọng đã được đề xuất cho Việt Nam nhằm hoàn thiện các chính sách tiền tệ giúp phục hồi nền kinh tế vĩ mô trong thời gian tới.
Từ khóa: Ba Lan, chính sách tiền tệ, kinh nghiệm, Thái Lan, Việt Nam
Abstract: The COVID-19 pandemic has affected the entire economy, society, and the environment. It is the most serious socio-economic crisis since the Second World War and is causing the world order to have strong fluctuations. The article provides an overview of monetary policy and analyzes the experiences of Poland and Thailand on monetary policy to recover the macroeconomy in the context of the post-COVID-19 crisis. Based on the experience of Poland and Thailand, a number of important suggestions have been proposed for Vietnam in order to improve monetary policies to recover the macroeconomy in the coming time.
Keywords: Poland, monetary policy, experience, Thailand, Vietnam
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sức khỏe toàn cầu đã trải qua một cuộc khủng hoảng lớn do đại dịch COVID-19 gây nên và nhanh chóng biến thành những cú sốc nghiêm trọng cho nền kinh tế. Các quốc gia đã phản ứng với đại dịch COVID-19 bằng cách áp dụng các lệnh giãn cách xã hội, lệnh phong tỏa, điều này đã đẩy hơn 90% nền kinh tế trên thế giới rơi vào tình trạng suy thoái vào năm 2020. Mặc dù cuộc khủng hoảng COVID-19 có tính chất toàn cầu, nhưng mức độ phản ứng và chính sách đối với đại dịch rất khác nhau giữa các lĩnh vực và các quốc gia. Mối quan tâm hàng đầu là hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại kinh tế do các lệnh phong tỏa và giãn cách xã hội. Các nhà hoạch định chính sách đã bắt đầu hành động bằng cách ban hành các chính sách tài khóa và tiền tệ chưa từng có cả về tốc độ và quy mô.
Trong giai đoạn Covid-19, Chính phủ Việt Nam đã có những bước đi kiên quyết, đúng đắn, kiểm soát sự lây lan bùng phát. Yếu tố quan trọng nhất góp phần tạo lên những thành công đó là dựa vào các phản ứng chính sách nhanh chóng và hiệu quả (La Việt Phương và cộng sự, 2020). Tuy nhiên, các chuyên gia kinh tế nhận định rằng việc chính phủ các nước đưa ra những gói kích cầu lớn nhằm giảm sự suy thoái kinh tế do tác động đại dịch Covid-19, tăng lãi suất sang giảm mạnh lãi suất… sẽ có tác động trực tiếp đến cơ chế điều hành chính sách tiền tệ và các yếu tố vĩ mô của nền kinh tế Việt Nam. Vấn đề cấp thiết đặt ra, Việt Nam cần phải sớm đưa ra cơ chế điều hành chính sách tiền tệ thích ứng trong các bối cảnh như COVID-19 hoặc khủng hoảng địa chính trị.
Một số quốc gia trên thế giới như Ba LanThái Lan, Nhật Bản… đã có những thành công nhất định trong điều hành chính sách tiền tệ đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô dưới tác động của đại dịch COVID-19 cũng như khủng hoảng kinh tế thế giới. Đối với Việt Nam, một quốc gia đang trong quá trình hoàn thiện các chính sách tiền tệ thì việc học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia trên thế giới có thể rút ra những bài học quý báu cho quá trình hoàn thiện chính sách tiền tệ góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Mục tiêu của bài viết nhằm phân tích kinh nghiệm điều hành chính sách tiền tệ của một số quốc gia trên thế giới để rút ra một số hàm ý chính sách cho Việt Nam trong thời gian tới.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Cơ sở lý thuyết về chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ là một trong các chính sách kinh tế vĩ mô, trong đó NHTW thông qua các công cụ của mình để thực hiện việc kiểm soát và điều tiết khối lượng tiền cung ứng nhằm tác động đến các mục tiêu cơ bản của nền kinh tế trên cơ sở đó đạt được các mục tiêu cuối cùng của mình là công ăn việc làm cao, tăng trưởng kinh tế, ổn định giá cả, ổn định lãi suất, ổn định thị trường tài chính và ổn định tỷ giá hối đoái (Mishkin, 2001).
Trong cuốn giáo trình kinh tế tiền tệ ngân hàng của Nguyễn Văn Tiến (2010) định nghĩa chính sách tiền tệ là chính sách kinh tế vĩ mô, thông qua các công cụ của mình, NHTW chủ động thay đổi cung ứng tiền hoặc lãi suất nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế xã hội để ra.
Vũ Xuân Dũng (2012) nhận định chính sách tiền tệ quốc gia là tổng hòa những phương thức mà ngân hàng trung ương thông qua các hoạt động của mình tác động lên khối lượng tiền trong lưu thông, nhằm thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước trong một thời kỳ nhất định.
Mặc dù có quan điểm chưa thống nhất về chính sách tiền tệ, nhưng trong nghiên cứu này, nhóm tác giả sử dụng khái niệm chính sách tiền tệ theo điều 3, Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010. Theo đó, chính sách tiền tệ là các quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao gồm quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra.
Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nghiên cứu, nhóm tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu bao gồm:
- Phương pháp thu thập thông tin và số liệu: thông tin và số liệu được thu thập từ các bài báo nghiên cứu về chính sách tiền tệ.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết: nghiên cứu các tài liệu, lý luận khác nhau về chính sách tiền tệ bằng cách phân tích chúng thành từng bộ phận để tìm hiểu sâu sắc. Tổng hợp, liên kết từng mặt, từng bộ phận thông tin đã được phân tích tạo ra một hệ thông lý thuyết đầy đủ và sâu sắc về chính sách tiền tệ.
- Phương pháp phân tích tổng kết kinh nghiệm: nghiên cứu và phân tích kinh nghiệm của Ba Lan, Thái Lan về chính sách tiền tệ đối phó khủng hoảng để rút ra một số hàm ý chính sách cho Việt Nam.
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI
Kinh nghiệm của Ba Lan
Ba Lan đã lựa chọn chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu là cơ chế điều hành chính sách tiền tệ và đạt được những thành công nhất định hướng đến phục hồi nền kinh tế vĩ mô. Ngân hàng quốc gia Ba Lan (NPB) là một trong số ít các ngân hàng trung ương đã bắt đầu thắt chặt chính sách tiền tệ. Kể từ tháng 10 năm 2020, NPB đã tăng lãi suất 4 lần với mức tích lũy 2,15% lên 2,25%. Những thay đổi đó đã đặt ra vấn đề về cách thức điều hành chính sách tiền tệ ở Ba Lan nhằm phục hồi nền kinh tế vĩ mô trong bối cảnh đại dịch COVID-19.
NPB đã phản ứng nhanh chóng khi bắt đầu đại dịch COVID-19. Trong ba cuộc họp vào tháng 3, tháng 4 và tháng 5 năm 2020, Hội đồng chính sách tiền tệ Ba Lan đã cắt giảm chính sách lãi suất từ 140 BPS xuống 10 BPS cùng với thiết lập chương trình mua tài sản (APP) để đảm bảo sự ổn định trên thị trường trái phiếu – là một thành phần quan trọng của cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ và một chương trình cho phép các ngân hàng tài trợ những khoản vay mới cho doanh nghiệp, hộ gia đình và khu vực công. Thực tế, sự hiện diện của NPB trên thị trường trái phiếu đã có tác động làm giảm đi lợi suất trái phiếu dài hạn bất chấp sự gia tăng về các khoản vay của chính phủ Ba Lan liên quan đến cuộc khủng hoảng COVID-19. Ngoài ra, NBP đã đưa ra một loạt các hành động pháp lý và bảo đảm vĩ mô được thiết kế để tạo điều kiện cho hệ thống ngân hàng tiếp tục hoạt động.
Sau 14 cuộc họp chính sách sau khi cắt giảm lãi suất vào năm 2020, NBP đã giữ nguyên lãi suất ở mức 0,1% và tiếp tục thực hiện. điều chỉnh các chương trình cung cấp thanh khoản khác nhau để phù hợp với điều kiện thị trường.
Vào tháng 10 năm 2021, với mục tiêu phục hồi nền kinh tế vĩ mô cùng với sự tăng trưởng của thị trường lao động và duy trì lạm phát ở mức 5,8%. NPB đã quyết định tăng lãi suất thêm 40 BPS lên 0,5%. Tuy nhiên, vào tháng 11, tháng 12 năm 2021 và tháng 1 năm 2022, tình trạng lạm phát gia tăng hơn nữa và các hoạt động kinh tế phục hồi mạnh mẽ hơn đã dẫn đến việc tăng lãi suất bổ sung đạt 2,25%. NBP khẳng định rằng việc tăng lãi suất hơn nữa là cần thiết để đáp ứng mục tiêu lạm phát trong giai đoạn phục hồi nền kinh tế sau đại dịch Covid-19.
Không chỉ chịu tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19, cuộc chiến tranh giữa Nga và Ukraina đã đẩy giá nhiên liệu và năng lượng tăng cao dẫn đến Chính phủ phải thông qua một gói các biện pháp tạm thời nhằm kiềm chế lạm phát và bù đắp cho những đối tượng yếu thế tại Ba Lan góp phần ổn định nền kinh tế vĩ mô.
Với cơ chế điều hành chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu, bảng cân đối kế toán của các tập đoàn Ba Lan đã có sự khởi sắc hơn trước đại dịch và các hành động của chính phủ đã ngăn chặn sự sụt giảm sâu của bảng cân đối kế toán doanh nghiệp và hộ gia đình, đồng thời duy trì tốt thị trường việc làm. Đặc biệt, tỷ lệ tiết kiệm hộ gia đình đã được nâng lên, cho thấy tiêu dùng phục hồi khi các hạn chế được gỡ bỏ. Điều này đã tạo điều kiện cho sự phục hồi mạnh mẽ của Ba Lan trong và sau đại dịch COVID-19. Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) dự báo rằng năm 2025 sẽ là năm mà sự phục hồi hoàn toàn được giữ vững nếu Ba Lan tiếp tục duy trì cơ chế điều hành chính sách tiền tệ hiện hành. Kinh nghiệm của Thái Lan
Có sự tương đồng với Ba Lan, chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu cũng đã được Thái Lan lựa chọn nhằm phục hồi nền kinh tế vĩ mô. Năm 2020, do tác động của đại dịch COVID-19 nền kinh tế Thái Lan rơi vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng. Do đó, để đảm bảo mức lạm phát mục tiêu là 3%, Thái Lan đã có ban hành một loạt các chính sách tiền tệ nhằm đối phó với hậu quả của dịch bệnh. Cụ thể, NHTW Thái Lan (BoT) đã giảm lãi suất chính sách 75 điểm phần trăm từ 1,25% xuống còn 0,5% để tạo không gian cho việc giảm lãi suất cho vay trong tương lai. Ngoài ra, BoT đã đưa ra các biện pháp giúp doanh nghiệp có thể phát triển và tháo gỡ khó khăn bao gồm (i) BoT đang cung cấp tới 500 tỷ Baht cho các tổ chức tài chính để cho vay lại đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt trong lĩnh vực du lịch và liên quan đến du lịch ở mức 2% mỗi năm; chính phủ miễn lãi suất trong 6 tháng đầu tiên và bảo lãnh tới 60 - 70% các khoản vay này; (ii) nới lỏng các điều kiện trả nợ cho các doanh nghiệp; hoãn thanh toán gốc và giảm lãi cho các khoản nợ của các định chế tài chính nhỏ. BoT cũng đưa ra các quy định cho phép phân loại các khoản nợ của ngân hàng một cách linh hoạt.
Trong giai đoạn phục hồi lại nền kinh tế, đối với nợ hộ gia đình, BoT đã phối hợp với các hiệp hội như Hiệp hội ngân hàng Thái Lan, Hiệp hội các ngân hàng quốc tế, Hiệp hội các tổ chức tài chính của Chính phủ…, để giảm thẻ tín dụng tối thiểu và trả nợ quay vòng từ 10% xuống còn 5%; có thời hạn 3 tháng đối với các khoản vay cá nhân (trả góp) và các khoản vay mua nhà, ô tô…
Ngoài ra, để ổn định an ninh tài chính trong bối cảnh đại dịch COVID-19, Thái Lan đã áp dụng các chính sách chưa từng có liên quan đến cung cấp một cơ chế ngăn chặn nhằm tránh tình trạng thắt chặt thanh khoản và ngăn ngừa rủi ro chuyển nhượng trên thị trường trái phiếu địa phương. Các biện pháp này bao gồm việc mua trái phiếu chính phủ do các ngân hàng và tổ chức tài chính phi ngân hàng nắm giữ, và thiết lập trước khoản hỗ trợ vốn tạm thời cho các doanh nghiệp chất lượng cao có trái phiếu sắp đáo hạn. Cụ thể, Thái Lan thành lập Quỹ Ổn định trái phiếu doanh nghiệp làm trung gian để BoT cung cấp 400 tỷ Baht cho các doanh nghiệp có kết quả hoạt động kinh doanh tốt có trái phiếu đáo hạn trong giai đoạn 2020-2022; BoT đã mua 100 tỷ Baht trái phiếu chính phủ vào tháng 3 để đảm bảo thị trường trái phiếu chính phủ hoạt động bình thường; BoT cắt giảm hoặc hủy bỏ phát hành trái phiếu theo kế hoạch phát hành trước đó; và thành lập một tổ chức đặc biệt nhằm cung thanh khoản cho các quỹ tương hỗ thông qua ngân hàng.
Với mục tiêu hoạt động là lãi suất chính sách, BoT đã sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ gồm: lãi suất tín dụng, công cụ dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở, vay vốn dự phòng nhằm duy trì thanh khoản thị trường tiền tệ ở mức phù hợp với mức lãi suất mục tiêu.
KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM
Kết luận
Lựa chọn chính sách tiền tệ góp phần đạt được các mục tiêu của nền kinh tế vĩ mô là vấn đề được đặc biệt quan tâm đối với một quốc gia. Đại dịch COVID-19 có tác động trực tiếp đến chính sách tiền của Việt Nam. Do đó, để phục hồi nền kinh tế vĩ mô, việc học hỏi kinh nghiệm quốc tế từ các cơ chế chính sách tiền tệ của Ba Lan, Thái Lan có những thành công nhất định trong điều hành chính sách tiền tệ nhằm phục hồi nền kinh tế vĩ mô sẽ góp phần phát huy những lợi thế vốn có, hạn chế những vấn đề phát sinh trong quá trình điều hành chính sách tiền tệ, từ đó mang lại lợi ích tổng thể cho nền kinh tế vĩ mô một cách bền vững.
Hàm ý chính sách
Chính sách tiền tệ là một công cụ quan trọng để điều hành nền kinh tế vĩ mô vượt qua cuộc khủng hoảng Covid-19 và bất ổn nền kinh tế. Những bài học đúc kết từ kinh nghiệm điều hành chính sách tiền tệ nhằm phục hồi nền kinh tế vĩ mô của Ba Lan và Thái Lan gợi mở hướng đi tiếp theo cho Việt Nam trong nỗ lực tiếp tục lựa chọn mục tiêu thực hiện chính sách tiền tệ, cụ thể như sau:
Một là, Việt Nam cần định hướng áp dụng khuôn khổ chính sách lạm phát mục tiêu linh hoạt nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định giá cả hướng đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế và ổn định tài chính trong ngắn hạn trước sự biến động của nền kinh tế trong bối cảnh sau tác động của đại dịch Covid-19 và sự bất ổn địa chính trị.
Hai là, xác định rõ mục tiêu, chỉ số lạm phát, công cụ chính sách tiền tệ trong cả quá trình điều hành và thực hiện chính sách, đặc biệt là lãi suất chính sách. Đồng thời, cần xác định rõ ràng chủ thể chịu trách nhiệm xác lập mục tiêu chính sách tiền tệ đặc biệt là mục tiêu lạm phát, đồng thời cần nâng cao hơn nữa tính độc lập của ngân hàng nhà nước trong việc điều hành chính sách tiền tệ.
Ba là, Ngân hàng Nhà nước cần nâng cao tính minh bạch trong quá trình ra quyết định và trách nhiệm giải trình về chính sách để đảm bảo tín nhiệm đối với công chúng. Sự minh bạch trong chính sách tiền tệ là một trong những trụ cột quan trọng trong khuôn khổ chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu linh hoạt.
Tài liệu tham khảo
1. IFM (2021), Policy responses to COVID-19 , https://www.imf.org/en/Topics/imf-and-covid19/Policy-Responses-to-COVID-19
2. La Việt Phương, Phạm Thanh Hằng, Hồ Mạnh Toàn, Nguyễn Minh Hoàng, Nguyễn Phúc Khánh Linh, Vương Thu Trang, Nguyễn Tô Hồng Kông, Hồ Tùng, Vương Quân Hoàng (2020), Policy response, social media and science journalism for the sustainability of the public health system amid the COVID-19 outbreak: The Vietnam lessons, Sustainability, 12(7), 2931-2958.
3. Mishkin, F. S. (2001), The Transmission Mechanism and the Role of Asset Prices in Monetary Policy, NBER Working Papers 8617, National Bureau of Economic Research, Inc.
4. Nguyễn Văn Tiến (2010), Kinh tế tiền tệ ngân hàng, Nxb Thống kê, Hà Nội.
5. Vũ Xuân Dũng (2012), Nhập môn Tài chính – Tiền tệ, Nxb Thống kê, Hà Nội.
| Ngày nhận bài: 03/02/2025; Ngày phản biện: 10/02/2025; Ngày duyệt đăng: 14/02/2025 |

Bình luận