Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo tại Việt Nam: Đánh giá thực trạng và một số khuyến nghị
TS. Lê Hải Hà
Trường Đại học Thương mại
Tóm tắt
Cùng với quá trình đổi mới và phát triển đất nước, những năm qua, đầu tư trực tiếp nước ngoài luôn đóng một vai trò quan trọng trong thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế, như sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài sẽ nâng cao khả năng cạnh tranh, thúc đẩy tiến bộ khoa học, nâng cao năng suất lao động, tạo công ăn việc làm và cải thiện mức sống của người dân. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, hiện hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại Việt Nam vẫn tồn tại một số hạn chế, cần tiếp tục hoàn thiện để đáp ứng tốt hơn, phù hợp với yêu cầu phát triển của thực tiến.
Từ khoá: Công nghiệp chế biến, chế tạo, đầu tư trực tiếp nước ngoài, phát triển kinh tế
Summary
Alongside the process of national reform and development, foreign direct investment has played a pivotal role in driving economic growth over the past years. The participation of foreign investors has contributed to enhancing competitiveness, promoting scientific and technological progress, increasing labor productivity, generating employment, and improving the standard of living. However, despite these achievements, the attraction of foreign investment in Vietnam’s manufacturing and processing industry still faces several limitations that need to be addressed and improved to better meet the practical demands of economic development.
Keywords: Manufacturing and processing industry, foreign direct investment, economic development
ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo Hội nghị Liên Hợp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD), đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một hoạt động đầu tư mang tính dài hạn nhằm thu về những lợi ích và sự kiểm soát lâu dài bởi một thực thể (nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc doanh nghiệp mẹ) của một doanh nghiệp (chi nhánh ở nước ngoài) ở một nước khác. Tổ chức thương mại thế giới WTO thì định nghĩa rằng: “FDI diễn ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước tiếp nhận đầu tư) với quyền quản lý tài sản đó”. Còn theo Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), FDI là một hoạt động đầu tư được thực hiện nhằm đạt được những lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ của một nền kinh tế khác nền kinh tế nước chủ đầu tư, mục đích của chủ đầu tư là giành quyền quản lý thực sự doanh nghiệp.
Như vậy, có thể hiểu FDI là quá trình khi một cá nhân hoặc một doanh nghiệp đầu tư tiền, tài sản hoặc nguồn lực khác vào hoạt động kinh doanh hoặc dự án tại một quốc gia khác nằm ngoài quốc gia sở tại của cá nhân, doanh nghiệp đó, nhất là trong lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo-một bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân.
Thực tế cho thấy, trong các phân ngành công nghiệp, công nghiệp chế biến, chế tạo luôn đóng vai trò chủ đạo, tạo ra giá trị gia tăng lớn nhất cho khu vực công nghiệp và tác động lan tỏa tổng thể đến chất lượng tăng trưởng kinh tế. Quy mô, tốc độ phát triển của ngành ảnh hưởng tới quy mô, chiều hướng và tốc độ phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế. Đồng thời, cơ cấu của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có ảnh hưởng lớn tới cơ cấu chung kinh tế của một quốc gia. Cũng bởi tầm quan trọng đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đòi hỏi vốn đầu tư lớn cho cơ sở vật chất, máy móc và thiết bị công nghệ cao. Sự đầu tư này không chỉ dừng lại ở cơ sở hạ tầng ban đầu mà còn cần liên tục cập nhật để đảm bảo tính hiệu quả và khả năng cạnh tranh. Vì thế, công nghệ tiên tiến, bao gồm tự động hóa, robot, trí tuệ nhân tạo (AI) và phân tích dữ liệu lớn(Big Data) ngày càng trở thành yếu tố then chốt trong việc tối ưu hóa quy trình sản xuất, giảm thiểu lỗi và tăng cường sự linh hoạt trong sản xuất. Không chỉ có vậy, việc đầu tư vào công nghệ tiên tiến cũng giúp giảm chi phí sản xuất lâu dài thông qua việc tăng hiệu quả năng lượng và giảm lãng phí nguyên liệu, cường khả năng tuân thủ các quy định về môi trường và an toàn lao động; đồng thời giúp tối ưu hóa trong sản xuất nhờ vào việc nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới, từ đó giúp doanh nghiệp nhanh chóng thích ứng với thị trường và nhu cầu thay đổi của người tiêu dùng. Tuy nhiên, để làm tốt vai trò này, Việt Nam rất cần tăng cường hơn nữa hoạt động thu hút FDI vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong thời gian tới.
THỰC TRẠNG THU HÚT FDI TRONG LĨNH VỰC CHẾ BIẾN CHẾ TẠO TẠI VIỆT NAM
Vốn FDI vào công nghiệp chế biến, chế tạo ngày một lớn
Theo đánh giá, những năm qua, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là một trong ba nhóm ngành có tác động mạnh mẽ đối với FDI trong nền kinh tế Việt Nam. Cùng với lĩnh vực dịch vụ và bất động sản, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo luôn chiếm vị trí hàng đầu về khả năng thu hút FDI từ các nhà đầu tư nước ngoài. Điển hình là, năm 2021 dù nền kinh tế Việt Nam chịu ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, nhưng công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn là ngành nhận được nhiều sự quan tâm nhất từ các nhà đầu tư nước ngoài khi liên tục dẫn đầu về lượng vốn FDI với 18,12 tỷ USD (chiếm 58,2% tổng vốn đăng ký của toàn nền kinh tế 31,15 tỷ USD) và tiếp tục là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng trưởng 6,37%. Trong báo cáo của Cục đầu tư nước ngoài năm 2021, các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 18/21 ngành kinh tế quốc dân và ngành công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đăng ký chiếm 58,2%.
Bước sang năm 2022, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có xu hướng giảm đi so với năm 2021 do cuộc khủng hoảng kinh tế trên toàn cầu và cuộc chiến tranh xung đột Nga - Ukraine bùng phát từ tháng 2/2022. Kinh tế nước ta năm 2022 diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới đang phải đối mặt với những thách thức lớn, biến động nhanh, khó lường và tính bất ổn cao; lạm phát đã tăng lên mức cao nhất trong nhiều thập kỷ, buộc các quốc gia phải thắt chặt chính sách tiền tệ, song ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng 8,10%, đóng góp 2,09 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Trong đó, lượng vốn FDI vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng vốn đầu tư theo ngành. Đến năm 2023, nguồn vốn FDI tăng gần 40% trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo nói riêng và 32% đối với toàn nền kinh tế nói chung so với năm 2022. Theo báo cáo của Cục đầu tư nước ngoài, các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 18/21 ngành kinh tế quốc dân. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đạt hơn 23,5 tỷ USD, chiếm 64,2% tổng vốn đầu tư đăng ký của toàn nền kinh tế 36,61 tỷ USD và tăng 39,9% so với cùng kỳ. Đây là tín hiệu khởi sắc cho thấy sự phục hồi sau đại dịch của ngành công nghiệp chế biến nói riêng và nền kinh tế nước nhà nói chung.
Không chỉ có vậy, năm 2024, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục khẳng định vai trò chủ đạo trong cơ cấu thu hút vốn FDI của Việt Nam, duy trì vị thế là lĩnh vực dẫn đầu và đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế quốc gia. Theo các báo cáo sơ bộ và dữ liệu cập nhật đến cuối năm 2024 và đầu năm 2025, tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam trong năm 2024 đạt khoảng 38,23 tỷ USD. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỷ trọng lớn nhất, ước tính thu hút khoảng 25,58 tỷ USD, tương đương khoảng 66,9% tổng vốn đầu tư đăng ký. Con số này cho thấy sự gia tăng nhẹ so với cùng kỳ năm trước, phản ánh niềm tin của các nhà đầu tư quốc tế vào tiềm năng và sự ổn định của môi trường sản xuất tại Việt Nam.
Về vốn FDI thực hiện, năm 2024 cũng ghi nhận mức giải ngân kỷ lục, ước đạt khoảng 25,35 tỷ USD trên toàn nền kinh tế, tăng 9,4% so với năm 2023. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là động lực chính với lượng vốn giải ngân chiếm tỷ trọng cao nhất, ước tính khoảng 20,6 tỷ USD, tương đương 81,4% tổng vốn FDI thực hiện. Điều này minh chứng cho sự chuyển hóa hiệu quả từ cam kết đầu tư sang hoạt động sản xuất kinh doanh thực tế, tạo ra giá trị gia tăng và việc làm.
Sự gia tăng về nguồn vốn FDI chính là dấu hiệu cho thấy sự quan tâm và niềm tin của các nhà đầu tư quốc tế vào triển vọng tăng trưởng và lợi nhuận của thị trường Việt Nam. Đặc biệt là trong bối cảnh diễn ra đại dịch Covid-19, lạm phát và lãi suất cao, căng thẳng địa chính trị đe dọa nền kinh tế toàn cầu, nhưng Việt Nam vẫn là một trong số những nước hiếm hoi có sự tăng trưởng dương trong cả ngành công nghiệp chế biến chế tạo và toàn nền kinh tế. Nguyên nhân khiến lĩnh vực này hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài là bởi Việt Nam có lợi thế về nguồn lao động, ổn định chính trị và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng. Việc FDI tập trung nhiều vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo đã mở ra cơ hội cho doanh nghiệp và ngành công nghiệp của Việt Nam. Theo đánh giá của một số chuyên gia kinh tế, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là nền tảng và động lực dẫn dắt tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp và toàn nền kinh tế. Hơn nữa, ngành này còn tạo sức hấp dẫn, thu hút lượng lớn nguồn vốn FDI trong các ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế như viễn thông; điện tử, công nghệ thông tin; sản xuất thép; xi măng; dệt may; da giày. Điều này cùng với sự có mặt của các nhà đầu tư lớn trong lĩnh vực công nghệ cao, sản xuất linh kiện điện tử và các ngành công nghiệp phụ trợ tiếp tục khẳng định công nghiệp chế biến chế tạo là điểm sáng. Hơn nữa, sự dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu và các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam tham gia vẫn là những yếu tố thuận lợi thúc đẩy dòng vốn FDI vào ngành này. Tuy nhiên, bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều biến động và sự cạnh tranh từ các quốc gia khác trong khu vực đòi hỏi Việt Nam cần tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực chất lượng cao để duy trì và nâng cao sức hấp dẫn của mình đối với các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo.
Một số hạn chế
Mặc dù ngành công nghiệp chế biến, chế tạo của Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong việc thu hút vốn FDI, nhưng thực tiễn cho thấy, hoạt động này vẫn gặp một số khó khăn, hạn chế mang tính hệ thống như: Chất lượng và sự đồng bộ của cơ sở hạ tầng, mặc dù đã có nhiều cải thiện, song vẫn chưa hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu của các dự án quy mô lớn và công nghệ cao, đặc biệt là hạ tầng giao thông kết nối đa phương thức, logistics và cung ứng năng lượng ổn định. Chi phí logistics tại Việt Nam vẫn còn ở mức tương đối cao so với một số quốc gia trong khu vực, ảnh hưởng đến tính cạnh tranh của sản phẩm. Cùng đó là vấn đề về nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là lao động có kỹ năng chuyên môn sâu, kỹ sư và cán bộ quản lý cấp trung có kinh nghiệm vẫn là một thách thức. Sự thiếu hụt này không chỉ ảnh hưởng đến năng suất, khả năng hấp thụ công nghệ mới mà còn hạn chế việc phát triển các ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cao hơn. Ngoài ra, sự phát triển của các ngành công nghiệp hỗ trợ trong nước còn hạn chế, tỷ lệ nội địa hóa trong nhiều lĩnh vực chế biến, chế tạo chưa cao. Điều này khiến các doanh nghiệp FDI vẫn phải phụ thuộc nhiều vào việc nhập khẩu nguyên phụ liệu, linh kiện, làm giảm giá trị gia tăng tạo ra tại Việt Nam và hạn chế sự lan tỏa công nghệ cũng như liên kết sản xuất với khu vực doanh nghiệp trong nước.
Đáng chú ý, mặc dù đã có nhiều nỗ lực cải cách, một số thủ tục hành chính vẫn còn phức tạp, thiếu minh bạch và nhất quán trong thực thi chính sách ở một số địa phương có thể gây khó khăn và làm tăng chi phí không chính thức cho nhà đầu tư. Công tác giải phóng mặt bằng cho các dự án công nghiệp đôi khi còn chậm trễ. Hơn nữa, việc đáp ứng các tiêu chuẩn ngày càng cao về môi trường, xã hội và quản trị (ESG) cũng đặt ra thách thức không nhỏ đối với cả cơ quan quản lý và doanh nghiệp trong việc thu hút các dòng vốn FDI chất lượng cao, hướng đến phát triển bền vững. Những hạn chế này đòi hỏi các giải pháp chính sách đồng bộ và quyết liệt hơn để tiếp tục nâng cao sức hấp dẫn và hiệu quả của dòng vốn FDI vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo.
MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ
Trước thực trạng trên, tác giả cho rằng để linh vực công nghiệp chế biến, chế tạo thu hút được nhiều nhà đầu tư hơn nữa, tạo đà cho kinh tế phát triển, Việt Nam cần thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, Sớm hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách phát triển ngành công nghiệp. Trong đó cần xây dựng, điều chỉnh, và ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật để tạo khung khổ pháp lý cho đẩy mạnh quá trình cơ cấu lại ngành công nghiệp, phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội cũng như cam kết của Việt Nam với quốc tế. Đẩy mạnh thực hiện Chương trình cải cách hành chính, trong hệ thống quản lý ngành công nghiệp. Tiếp tục rà soát và cắt giảm các quy trình, thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh không còn phù hợp, đang là rào cản các hoạt động đầu tư, và kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ hai, cần tạo dựng môi trường đầu tư thuận lợi và nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế. Nhà nước cần thúc đẩy các biện pháp xây dựng lòng tin, minh bạch hóa chính sách và thực hiện nghiêm túc, nhất quán các cam kết quốc tế; loại bỏ các rào cản trong sản xuất kinh doanh, trong tiếp cận các nguồn lực Nhà nước (vốn tín dụng, chính sách thuế, chính sách đất đai...). Bên cạnh đó cần xây dựng chương trình/kế hoạch về hỗ trợ, chăm sóc sau đầu tư, đặc biệt là các dự án lớn có tính chất động lực thúc đẩy phát triển, nhằm đảm bảo cho tái đầu tư và mở rộng đầu tư, cũng như tạo hiệu ứng lan tỏa thông tin thu hút cho các nhà đầu tư mới.
Thứ ba, cần nâng cao hiệu quả sản xuất và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp ngành công nghiệp theo hướng xây dựng chương trình hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp khởi nghiệp, trong các ngành công nghiệp ưu tiên, ứng dụng thành quả của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0; khuyến khích mạnh mẽ các doanh nghiệp công nghiệp đang hoạt động, đầu tư chiều sâu và mở rộng sản xuất, để nâng cao năng cạnh tranh và tạo thêm năng lực sản xuất mới, đáp ứng tăng trưởng ngành công nghiệp. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp ngoài nhà nước, tham gia vào quá trình cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực công nghiệp, thông qua việc góp vốn, mua cổ phần, phát triển liên kết sản xuất, trên cơ sở chuỗi giá trị, giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài nhà nước, trong lĩnh vực công nghiệp. Chú trọng mở rộng liên kết, hợp tác sản xuất và cải tiến hệ thống phân phối. Xây dựng chuỗi giá trị cho một số sản phẩm công nghiệp ưu tiên, gắn với tổ chức lại ngành công nghiệp.
Thứ tư, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và đẩy mạnh phát triển khoa học, công nghệ ngành công nghiệp. Theo đó cần tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả các nghị quyết, đề án, chương trình về phát triển khoa học công nghệ trong ngành công nghiệp, như: Đề án ứng dụng khoa học và công nghệ trong quá trình tái cơ cấu ngành Công thương, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững giai đoạn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030, các chương trình đổi mới công nghệ quốc gia, chương trình phát triển một số ngành công nghiệp công nghệ cao, chương trình quốc gia nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm hàng hóa. Thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ ngành công nghiệp và nâng cao năng lực, trình độ quản lý sản xuất ngành công nghiệp, trên cơ sở thúc đẩy mạnh doanh nghiệp thực hiện các hệ thống tiêu chuẩn, quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, đặc biệt là về sức khỏe, môi trường, để vượt qua các rào cản kỹ thuật trong thương mại tại các thị trường xuất khẩu quan trọng. Đổi mới chính sách và chương trình đào tạo, dạy nghề về công nghệ và kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế thị trường và phù hợp với hội nhập kinh tế quốc tế. Mở rộng hoạt động hợp tác và hội nhập quốc tế về dạy nghề, phát triển thị trường lao động, an sinh xã hội… nhằm thu hút nguồn lực, kinh nghiệm quốc tế trong phát triển nguồn nhân lực.
Tài liệu tham khảo
1. Cục Đầu tư nước ngoài (2021-2024). Báo cáo tình hình thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam 2021-2024.
2. Nguyễn Thị Quỳnh Hương (2022). Thực trạng và giải pháp thu hút nguồn vốn FDI vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế bền vững ở Việt Nam giai đoạn hiện nay, Nxb bản Khoa học Xã hội và Nhân văn.
3. Phùng Mai Lan, Nguyễn Thùy Trang và Nguyễn Khắc Minh (2022). Lan tỏa FDI và khả năng hấp thụ của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam - Phân tích hồi quy ngưỡng, Nxb Kinh tế và Phát triển.
4. Vũ Thị Thanh Huyền (2021). FDI với phát triển ngành công nghiệp chế biến chế tạo tại việt nam trong bối cảnh đại dịch COVID-19, Nxb Khoa học và Kinh tế.
Ngày nhận bài: 05/5/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 22/5/2025; Ngày duyệt đăng: 28/5/2025 |
Bình luận