Doanh nghiệp vẫn gặp rất nhiều khó khăn, Ban IV kiến nghị loạt giải pháp mới
Cụ thể, theo thông tin trao đổi, thảo luận, nắm bắt nhanh tình hình thực tế từ 16 tổ chức, hiệp hội trong nửa đầu tháng 8 vừa qua, cũng như căn cứ thông tin tổng hợp từ các doanh nghiệp, hiệp hội, Ban IV cho biết, hiện vẫn còn một số vấn đề khó khăn, thách thức liên quan đến quá trình phục hồi của doanh nghiệp sau đại dịch Covid-19.
Kiến nghị nới room tín dụng, gỡ khó về tài chính cho doanh nghiệp
Dẫn phản ánh từ các tổ chức, hiệp hội, Ban IV cho biết, hầu hết doanh nghiệp vẫn đứng trước khó khăn rất lớn về tài chính bởi nhiều lý do, trong đó điển hình là thiếu vốn lưu động do hậu quả của hơn hai năm đại dịch không có hoặc ít doanh thu nhưng vẫn phải đảm bảo chi trả tiền nợ, lãi vay ngân hàng cùng các khoản khác để duy trì, vận hành doanh nghiệp ở mức độ tối thiểu.
Đáng chú ý là, chi phí đầu vào cho sản xuất tăng cao là khó khăn lớn mà hầu hết các doanh nghệp phải đối mặt. Tỷ giá USD/VND đã tăng từ đầu năm và tăng mạnh thời gian gần đây do Cục Dự trữ liên bang Hoa Kỳ (FED) tăng lãi suất. Tỷ giá tăng làm tăng giá nhập khẩu nguyên liệu đầu vào cho sản xuất đối với các doanh nghiệp nhập khẩu giao dịch bằng USD. Bên cạnh đó, việc giá nhiên liệu tăng cao do xung đột Nga-Ukraine kéo dài làm tăng áp lực lên chi phí vận tải và logistics vốn đã tăng rất cao trong hơn hai năm dịch, kéo theo sự tăng giá của một loạt mặt hàng.
Ban IV tiếp tục đề xuất các giải pháp thiết thực gỡ khó hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi sau đại dịch |
Cùng với đó, số lượng và lợi nhuận đơn hàng đầu ra sụt giảm cũng đẩy các doanh nghiệp vào tình thế khó khăn. Sự thắt chặt của điều kiện tài chính toàn cầu cộng với đứt gãy chuỗi cung ứng làm giảm triển vọng tăng trưởng của kinh tế toàn cầu, dẫn đến nhu cầu đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam thấp đi rất nhiều ở hầu hết các thị trường. Ngoài ra, việc đồng Việt Nam mạnh hơn tương đối so với những đồng tiền khác như Yen Nhật hay đồng tiền chung châu Âu (Euro) khiến cho các doanh nghiệp có thị trường xuất khẩu tại Liên minh châu Âu hay Nhật Bản chịu nhiều bất lợi, do thu về những đồng tiền đang mất giá mạnh;
Vấn đề vẫn tồn tại lâu nay vẫn chưa được giải quyết là khó khăn trong tiếp cận vốn vay. Hầu hết doanh nghiệp, đặc biệt các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đang gặp tình trạng này do tài sản đảm bảo của doanh nghiệp thấp, dẫn đến việc các ngân hàng thường không ưu tiên cho vay. Dòng tiền “tự thân” của các doanh nghiệp cũng nhỏ và không ổn định khiến các doanh nghiệp cơ bản không thỏa mãn được các điều kiện khi muốn tiếp cận những nguồn vay hỗ trợ, vay ưu đãi, vay vốn trung và dài hạn. Ngay cả đối với các doanh nghiệp không gặp vướng mắc bởi hai yếu tố trên thì trong bối cảnh hiện nay, khi Ngân hàng Nhà nước kiểm soát chặt chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng, các ngân hàng thương mại cũng không còn room tín dụng để cho doanh nghiệp vay.
Theo đánh giá của Ban IV, thực tế các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ kinh doanh chiếm tới 95% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động của Việt Nam. Nếu không giải quyết vấn đề cho vay tín dụng thì các doanh nghiệp và hộ kinh doanh này sẽ có nguy cơ phá sản, do doanh nghiệp không có tiền trả lương cho người lao động và theo đó, doanh nghiệp sẽ mất nguồn nhân lực. Bên cạnh đó, doanh nghiệp không có vốn để kinh doanh và đầu tư mới, không thể khắc phục được các hậu quả sau những năm Covid vừa qua.
“Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò như những doanh nghiệp vệ tinh, hỗ trợ cho các doanh nghiệp và tập đoàn lớn trong quá trình triển khai những dự án trọng điểm của đất nước. Do đó, việc cần thiết lúc này là phải có các biện pháp kiểm soát mức tăng lạm phát một cách hợp lý để nới room tín dụng, nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp và hộ kinh doanh nói trên. Nếu không sẽ xảy ra kịch bản trong năm tới là các doanh nghiệp này bị phá sản, không thể tồn tại được, kéo theo suy thoái kinh tế. Như vậy còn nguy hiểm hơn lạm phát”, báo cáo của Ban IV khuyến nghị.
Cần thêm trợ lực hồi sinh ngành du lịch
Bên cạnh các khó khăn về tài chính, báo cáo của Ban IV cũng chỉ ra một số khó khăn đặc thù liên quan đến ngành du lịch. Báo cáo nêu số liệu thống kê của Tổng cục Du lịch cho hay, tổng lượng khách du lịch nội địa trong 6 tháng đầu năm 2022 đạt 60,8 triệu lượt, gấp 1,3 lần so với mức trước đại dịch của 6 tháng năm 2019. Tuy nhiên, cũng trong giai đoạn này, Việt Nam chỉ đón được hơn 600 nghìn lượt khách quốc tế, tương đương 7% mức trước đại dịch của 6 tháng năm 2019 vì cả khó khăn khách quan và chủ quan. Vì vậy, theo nhận định của Ban IV, mục tiêu đón trên 5 triệu lượt khách quốc tế tới Việt Nam trong năm 2022 là rất thách thức.
Một số khó khăn chủ yếu được Ban IV chỉ ra như thời điểm mở cửa (15/3/2022) rơi vào cuối mùa cao điểm của du lịch inbound (thường từ tháng 10 đến tháng hết 3 hàng năm), đồng thời có sự biến động rất lớn ở một số thị trường khách truyền thống và mục tiêu (do cuộc chiến Nga - Ukraine, do lạm phát ở cả Mỹ và nhiều nước Châu Âu, hoặc do các chính sách thắt chặt với Covid từ Trung Quốc, Nhật Bản…) nên hiệu ứng thu hút khách quốc tế còn rất hạn chế.
Công tác truyền thông, xúc tiến, quảng bá chính sách mở cửa du lịch tới các thị trường khách mục tiêu còn hạn chế. Mặc dù Chính phủ có tuyên bố mở cửa du lịch quốc tế chính thức từ ngày 15/3/2022, đi kèm từng bước nới lỏng về quy định y tế đối với du khách nhập cảnh vào Việt Nam, nhưng các hoạt động truyền thông và xúc tiến cho du lịch Việt Nam ở nước ngoài vẫn đang chủ yếu do các doanh nghiệp tư nhân thực hiện một cách riêng lẻ, phụ thuộc vào năng lực và mối liên hệ của từng doanh nghiệp, chưa hội tụ được đồng thời nguồn lực và nỗ lực công - tư cho các thị trường khách mục tiêu.
Chính sách thị thực nói chung dù đã được tuyên bố cởi mở như trước dịch Covid 19, tuy nhiên những ưu đãi về miễn thị thực chưa đáp ứng được các xu hướng du lịch sau dịch (ví dụ: khách quốc tế ít đi lại di chuyển, có xu hướng ở dài ngày tại một quốc gia trong khi thời gian miễn thị thực của Việt Nam chỉ tối đa là 15 ngày), chưa cạnh tranh với các nước trong khu vực. Bên cạnh đó, các vấn đề như thị thực nhận tại cửa khẩu vẫn phải cần giấy “chấp thuận visa”, cần nhiều loại giấy tờ thủ tục phức tạp hơn so với trước Covid-19; hay thị thực điện tử (e-visa) cũng chưa có cơ chế xác nhận ngày trả lời kết quả tự động trên trang web và chưa giải thích lý do vì sao hồ sơ bị từ chối, khiến du khách nhập cảnh vào Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn không đáng có.
Doanh nghiệp thiếu thông tin về vấn đề giảm phát thải
Phát thải là câu chuyện ngày càng nóng bỏng và thu hút sự quan tâm lớn của cộng đồng doanh nghiệp. Theo Ban IV, cam kết mạnh mẽ đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 mà Thủ tướng tuyên bố tại Hội nghị COP 26 thể hiện quan điểm, chiến lược rõ ràng của Chính phủ trong vấn đề chống biến đổi khí hậu và phát triển bền vững. Ngay sau đó là sự cụ thể hóa cam kết bằng những hành động cụ thể của Chính phủ, thông qua việc thành lập Ban chỉ đạo Quốc gia triển khai thực hiện cam kết của Việt Nam tại COP 26; ban hành Nghị định số 06/2022/NĐ-CP; Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg...
Tuy nhiên, để đi tới thành công, bên cạnh nỗ lực của Chính phủ với vai trò kiến tạo, dẫn dắt, người dân, doanh nghiệp cần đóng vai trò trung tâm và là chủ thể thực hiện.
Thách thức được các hiệp hội phản ánh bước đầu là doanh nghiệp, hiệp hội hiện còn chưa nắm rõ, chưa đánh giá được vai trò của mình cũng như các yêu cầu, quy định mới có khả năng ảnh hưởng tới sản xuất, kinh doanh để đồng hành với quyết tâm của Chính phủ vì chưa có những kênh thông tin cung cấp các khía cạnh liên quan trực tiếp tới doanh nghiệp.
Thách thức ngày càng gia tăng khi thời gian gần đây, Mỹ và Liên minh châu Âu - các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam - đang đề xuất áp dụng một cơ chế mới, được gọi là Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (viết tắt là CBAM), trong đó đưa ra các rào cản kỹ thuật, các quy định liên quan giảm phát thải buộc doanh nghiệp ở các nước xuất khẩu vào các thị trường này phải tuân theo và có thể đánh thuế cac-bon trong trường hợp không đáp ứng các quy định. Thời hạn áp dụng các cơ chế này, nếu được thông qua, sẽ là ngay đầu năm 2024 (đối với cơ chế của Mỹ) và 2026 (đối với cơ chế của EU). Theo đó, sẽ có ảnh hưởng rất lớn và phức tạp tới hầu hết doanh nghiệp sản xuất xuất khẩu của Việt Nam.
Khuyến nghị giải pháp gỡ khó cho doanh nghiệp phục hồi
Từ thực trạng trên, Ban IV và các hiệp hội doanh nghiệp tiếp tục đưa ra một số đề xuất kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét, chỉ đạo các Bộ, ngành liên quan cân nhắc một số giải pháp. Theo đó, trước hết để gỡ khó về vấn đề tài chính cho doanh nghiệp, Ban IV kiến nghị Chính phủ tiếp tục duy trì các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp về thuế, phí, tín dụng, tiếp tục rà soát, mở rộng hỗ trợ nhằm giảm gánh nặng chi phí của doanh nghiệp trong quá trình phục hồi.
Đẩy nhanh các gói hỗ trợ kinh tế bao gồm gói bù lãi suất bổ sung 40 nghìn tỷ, giải ngân gói đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng trị giá 113.050 tỷ đồng nhằm tạo điều kiện tốt hơn cho phục hồi nền kinh tế. Ngoài ra, đề xuất Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu phương án nâng “trần” tăng trưởng tín dụng đối với các ngân hàng thương mại để ưu tiên thúc đẩy các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, đặc biệt là các lĩnh vực kinh doanh trọng điểm như du lịch, công nghiệp, xuất nhập khẩu, nông, lâm, thủy sản; bên cạnh mục tiêu kiểm soát kỹ lưỡng dòng vốn tín dụng vào các lĩnh vực rủi ro cao như bất động sản, chứng khoán.
Để hỗ trợ ngành du lịch nhanh chóng phục hồi, đặc biệt phục hồi lượng khách quốc tế tới Việt Nam, Ban IV đề xuất Chính phủ chỉ đạo Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch (Tổng cục Du lịch), các đại sứ quán Việt Nam tại nước ngoài, Bộ Thông tin và Truyền thông tiếp tục phối hợp chặt chẽ và tăng cường hợp tác công tư để lên kế hoạch đồng bộ đẩy mạnh truyền thông quốc tế và tiếp thị du lịch ra quốc tế, đặc biệt tìm cơ chế phát huy mạnh mẽ vai trò của các Văn phòng xúc tiến du lịch Việt Nam tại một số nước (như Anh, Úc - đã được Hội đồng tư vấn du lịch TAB và các doanh nghiệp du lịch chủ động phát triển bước đầu).
Giao Bộ Ngoại giao, Bộ Công an nghiên cứu, đề xuất phương án cải thiện chính sách thị thực/thị thực điện tử theo hướng mở rộng thêm danh sách miễn thị thực cho các thị trường tiềm năng như Hoa Kỳ, Ấn Độ, Canada, Úc, New Zealand, Thụy Sĩ, Bỉ, Hà Lan,... nhằm đa dạng hóa thị trường, không để bị lệ thuộc vào một vài thị trường truyền thống, nhất là các thị trường chi phối trong khu vực nhưng du khách chưa sẵn sàng đi du lịch trở lại như Nga, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản; tăng thời gian miễn thị thực cho các thị trường xa như thị trường châu Âu (Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Ý và các nước Bắc Âu) từ 15 ngày lên 30 ngày; áp dụng thị thực xuất-nhập cảnh nhiều lần và có giá trị miễn nhiều ngày hơn nhằm thu hút và giữ chân khách ở lại Việt Nam lâu hơn, qua đó tăng doanh thu cho ngành du lịch.
Giảm bớt giấy tờ và thủ tục với các doanh nghiệp lữ hành hoặc trực tiếp với du khách, đơn giản hóa thị thực điện tử và thị thực tại cửa khẩu để phát huy hiệu quả hơn nữa các hình thức thị thực này. Ngoài ra, đối với các cải cách tới đây liên quan tới hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về du lịch, đề xuất Chính phủ tăng cường các chương trình đối thoại, chia sẻ công - tư để doanh nghiệp nhận thức được tác dụng, hiệu quả và gia tăng sự ủng hộ, niềm tin với nỗ lực của ngành.
Riêng đối với vấn đề hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao nhận thức về vấn đề giảm phát thải để thực hiện cam kết của Việt Nam tại COP 26 và thích ứng với thách thức từ các thị trường quốc tế, hiện Ban IV cho biết đang tiến hành khảo sát nhanh diện rộng doanh nghiệp nhằm đánh giá kĩ hơn nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp xung quanh vấn đề này, nhằm sớm có thông tin, căn cứ chi tiết báo cáo Thủ tướng Chính phủ để đề xuất các giải pháp phù hợp dự kiến vào cuối tháng 8. Liên quan vấn đề này, Ban IV đề xuất Thủ tướng cho phép Ban làm việc cùng Bộ Tài nguyên - Môi trường trong quá trình này, để có những tham mưu hiệu quả và thiết kế được các chương trình hữu ích cho doanh nghiệp./.
Bình luận