ThS. Lò Thu Hà

Ngân hàng Chính sách xã hội

Email: halt2@vbsp.vn

Tóm tắt:

Ngân hàng Chính sách xã hội (VBSP) có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước, đặc biệt trong bối cảnh biến động kinh tế - xã hội sau đại dịch COVID-19. Chiến lược phát triển Ngân hàng Chính sách xã hội đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2023 nhằm củng cố tổ chức, nâng cao năng lực, mở rộng và đảm bảo tính bền vững của hoạt động tín dụng chính sách. Trên cơ sở đánh giá kết quả đạt được trong những năm qua, bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thành mục tiêu giai đoạn 2026-2030 của Chiến lược.

Từ khóa: Chiến lược phát triển Ngân hàng Chính sách xã hội, tín dụng chính sách, Ngân hàng Chính sách xã hội

Summary

The Vietnam Bank for Social Policies (VBSP) plays a crucial role in implementing the social welfare policies of the Party and the State, particularly in the context of socio-economic fluctuations following the COVID-19 pandemic. The Development Strategy of the VBSP to 2030, approved by the Prime Minister in 2023, aims to consolidate organizational structure, enhance institutional capacity, expand operations, and ensure the sustainability of policy credit activities. Based on an assessment of the achievements in recent years, this article proposes several solutions to fulfill the objectives of the 2026-2030 phase of the Strategy.

Keywords: Development Strategy of the Vietnam Bank for Social Policies, policy credit, Vietnam Bank for Social Policies

ĐẶT VẤN ĐỀ

2021-2025 là giai đoạn kinh tế - xã hội có nhiều biến động. Đại dịch COVID-19 đã tác động mạnh mẽ đến đời sống người dân, đặc biệt là các nhóm yếu thế, hộ nghèo và lao động phi chính thức. Song song với đó, quá trình phục hồi kinh tế đặt ra yêu cầu lớn về vốn cho sản xuất, việc làm và an sinh xã hội. Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) được giao nhiệm vụ quan trọng trong triển khai vốn tín dụng chính sách đến tận hộ gia đình, thôn bản, góp phần ổn định đời sống và phục hồi sản xuất.

Ngày 4/1/2023, Thủ tướng Chính phú đã ban hành Quyết định số 05/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển NHCSXH đến năm 2030 (sau đây gọi tắt là Chiến lược). Chiến lược đã xác định, tín dụng chính sách xã hội là giải pháp quan trọng thực hiện các chủ trương, chính sách, mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước về tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện công bằng xã hội và thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia cũng như phát triển kinh tế - xã hội của Đất nước; duy trì và tiếp tục phát huy hiệu lực, hiệu quả mô hình tổ chức và phương thức quản lý vốn tín dụng chính sách xã hội đặc thù, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam; tập trung, thống nhất chức năng tín dụng chính sách từ các ngân hàng thương mại sang NHCSXH, nâng cao năng lực hoạt đông của NHCSXH để phát triển theo hướng ổn định, bền vững, đủ năng lực để thực hiện tốt tín dụng chính sách xã hội… Bài viết này đánh giá việc thực hiện Chiến lược phát triển NHCSXH đến năm 2030, giai đoạn 2021-2025, chỉ ra những tồn tại hạn chế, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm thực hiện hiệu quả chiến lược này.

KẾT QUẢ THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC TRONG GIAI ĐOẠN 2021-2025

Để thực hiện các mục tiêu của Chiến lược, NHCSXH đã bám sát chỉ đạo của Ban Bí thư, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Hội đồng quản trị NHCSXH; không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả mô hình tổ chức, phương thức quản lý tín dụng đặc thù, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Đặc biệt, Ngân hàng đã phát huy được vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước, sự đồng hành của cả hệ thống chính trị, huy động được sức mạnh tổng hợp của người dân trong tham gia quản lý, giám sát, triển khai nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả chính sách tín dụng ưu đãi của Nhà nước đến người nghèo và các đối tượng chính sách khác.

Cụ thể, quy mô vốn và tăng trưởng ổn định. Tính đến ngày 31/8/2025, tổng nguồn vốn của NHCSXH đạt 422.183 tỷ đồng, tăng 40.025 tỷ đồng so với cuối năm 2024 (tương đương tăng 10,5%) so với năm 2024. Trong đó: (i) Vốn nhận từ ngân sách nhà nước đạt 50.852 tỷ đồng, chiếm 12%; (ii) Vốn được giao huy động từ dân cư và tổ chức kinh tế đạt 272.625 tỷ đồng, tăng 16.428 tỷ đồng, chiếm 64,6%; (iii) Vốn nhận ủy thác từ ngân sách địa phương đạt 63.049 tỷ đồng, tăng 12.368 tỷ đồng, chiếm 14,9%; (iv) các nguồn vốn khác.

Tổng dư nợ tín dụng chính sách đạt 394.116 tỷ đồng, tăng 26.483 tỷ đồng (+7,2%) so với năm 2024 với hơn 6.751.000 khách hàng còn dư nợ. Trong đó, dư nợ nguồn vốn cân đối từ trung ương đạt 333.290 tỷ đồng, tăng 14.841 tỷ đồng (+4,7%) so với năm 2024, dư nợ nguồn vốn cân đối từ ngân sách địa phương ủy thác qua NHCSXH đạt 60.826 tỷ đồng, tăng 11.642 tỷ đồng (+23,7%) so với 2024. Hiện có khoảng 6,75 triệu hộ còn dư nợ, bao gồm hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số, học sinh - sinh viên, lao động đi làm việc ở nước ngoài, hộ vay xây dựng nhà ở xã hội…

Tín dụng chính sách đã lan tỏa mạnh mẽ thông qua hơn 10.400 điểm giao dịch xã, phường trên cả nước với phương thức "giao dịch tại nhà, giải ngân, thu nợ tại xã" - đây là đặc trưng riêng có, một thế mạnh mà không tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính vi mô nào có được. Các chương trình cho vay có dư nợ cao như cho vay hộ nghèo đến 31/8/2025 đạt 32.805 tỷ đồng, cho vay hộ cận nghèo đạt 39.398 tỷ đồng, cho vay hộ mới thoát nghèo đạt 46.048 tỷ đồng, chương trình cho vay nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn đạt 72.875 tỷ đồng, cho vay giải quyết việc làm đạt 125.897 tỷ đồng… Các chương trình trên đã góp phần trực tiếp giúp hàng triệu hộ nghèo, cận nghèo, mới thoát nghèo và đối tượng chính sách tiếp cận vốn để đầu tư sản xuất, chăn nuôi, học tập, xây dựng công trình nước sạch - vệ sinh, tạo việc làm và cải thiện chất lượng cuộc sống.

Điểm nổi bật là NHCSXH luôn duy trì chất lượng tín dụng ổn định, bảo đảm an toàn. Ngân hàng cùng các tổ chức chính trị - xã hội nhận ủy thác và chính quyền địa phương luôn chú trọng củng cố và nâng cao chất lượng tín dụng thông qua chỉ đạo thực hiện đồng bộ, quyết liệt hệ thống các giải pháp như củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động các tổ Tiết kiệm và vay vốn tại cơ sở; chủ động phân tích, đánh giá chất lượng tín dụng các đơn vị trực thuộc; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát; thành lập tổ thu nợ ở những nơi có nợ quá hạn cao, khó thu; rà soát và đề nghị xử lý các khoản nợ gặp rủi ro do nguyên nhân khách quan kịp thời. Đồng thời, NHCSXH thường xuyên tăng cường công tác tuyên truyền nâng cao ý thức của người dân và thực hiện nguyên tắc có vay có trả; tích cực rà soát, kiểm tra, đôn đốc, thu hồi các khoản nợ quá hạn, do vậy chất lượng tín dụng chính sách xã hội không ngừng được nâng lên.

Đến 31/8/2025, tổng nợ quá hạn và nợ khoanh toàn hệ thống là 2.150 tỷ đồng, chiếm 0,55% tổng dư nợ. Trong đó: nợ quá hạn 989 tỷ đồng, chiếm 0,25%/tổng dư nợ; nợ khoanh 1.160 tỷ đồng, chiếm 0,30%/tổng dư nợ. So với ngưỡng < 2% theo Chiến lược, tỷ lệ nợ quá hạn của NHCSXH thấp hơn nhiều, chứng tỏ hiệu quả quản trị rủi ro và năng lực phối hợp giám sát tại cơ sở.

Một điểm nhấn trong giai đoạn 2021-2025 là NHCSXH đẩy mạnh chuyển đổi số, từng bước nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Xây dựng và quản trị chuyên mục “Ngân hàng số” trên website NHCSXH để truyền thông các hoạt động về tiến trình chuyển đổi số. Xây dựng ứng dụng Giáo dục tài chính trên điện thoại thông minh nhằm truyền thông cho khách hàng về các chương trình tín dụng chính sách xã hội, thủ tục vay vốn, một số mô hình vay vốn điển hình và giáo dục tài chính cá nhân, hộ gia đình, hỗ trợ sản xuất kinh doanh.

Bên cạnh đó, NHCSXH triển khai các dự án chuyển đổi số như: Dự án đầu tư hệ thống quản trị danh mục và người sử dụng, Dự án đầu tư hạ tầng hệ thống Mobile Banking, Dự án đầu tư hạ tầng triển khai giải pháp FacePay, Dự án Nâng cấp phiên bản hệ thống Intellect Core Banking, Dự án phát triển hệ thống báo cáo trực tuyến kết nối với hệ thống SIMO của Ngân hàng Nhà nước, phối hợp với Viettel nghiên cứu giải pháp triển khai thực hiện hợp đồng ký quỹ điện tử, Dự án hợp tác với MasterCard… Ngoài ra, NHCSXH đã đoàn thiện hạ tầng công nghệ thông tin, kết nối hệ thống thanh toán NAPAS, VNPAY; thí điểm các dịch vụ ngân hàng số cho khách hàng chính sách; ứng dụng công nghệ quản lý dữ liệu tập trung, nâng cao hiệu quả kiểm tra, giám sát. Những nỗ lực này không chỉ nâng cao tính minh bạch, giảm chi phí giao dịch mà còn mở ra cơ hội tài chính toàn diện cho người nghèo ở vùng sâu, vùng xa.

MỘT SỐ KHÓ KHĂN, HẠN CHẾ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CHÍNH SÁCH

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động tín dụng chính sách vẫn còn một số khó khăn, hạn chế như sau:

Một là, cơ chế, chính sách quy định liên quan đến tín dụng chính sách mặc dù được thường xuyên nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn chưa theo kịp sự thay đổi liên tục về mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế - xã hội và các chương trình mục tiêu quốc gia từng thời kỳ.

Hai là, năng lực tài chính còn hạn chế so với nhu cầu của người dân. Cụ thể, cơ cấu nguồn vốn của NHCSXH chưa thực sự hợp lý do nguồn vốn ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn, thiếu tính ổn định; nguồn ủy thác ngân sách địa phương còn hạn chế. Một số địa phương sau sắp xếp đơn vị hành chính gặp khó khăn trong bố trí vốn ủy thác.

Ba là, các sản phẩm, dịch vụ tài chính cung cấp cho người nghèo, các đối tượng chính sách, doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa đa dạng, phần lớn là sản phẩm cho vay khách hàng cá nhân, sản phẩm cho vay đối với khách hàng là doanh nghiệp vùng khó khăn còn hạn chế.

Bốn là, công nghệ thông tin cơ bản được áp dụng, tuy nhiên, hạ tầng công nghệ chưa đồng bộ, còn hạn chế ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, dẫn đến chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển công nghệ thông tin của ngành Ngân hàng và chiến lược chuyển đổi số quốc gia.

GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI GIAI ĐOẠN 2026-2030

Nhằm hoàn thành Chiến lược phát triển NHCSXH đến năm 2030, một số nhiệm vụ và giải pháp cụ thể được đặt ra như sau:

Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội. Tiếp tục tổ chức nghiên cứu, phổ biến, quán triệt sâu rộng nội dung Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 và Kết luận số 06-KL/TW ngày 10/6/2021 của Ban Bí thư tới 100% các tổ chức, cơ sở đảng nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về vị trí, vai trò của tín dụng chính sách xã hội. Chủ động đề xuất, tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành trung ương, cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp, phối hợp chặt chẽ với các tổ chức chính trị - xã hội nhận ủy thác trong việc tổ chức triển khai thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW và Kết luận số 06-KL/TW. Phát huy vai trò, trách nhiệm giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện tín dụng chính sách xã hội.

Hai là, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, cơ chế, chính sách, các quy định liên quan đến tổ chức, hoạt động tín dụng chính sách xã hội của NHCSXH. Tập trung rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, kịp thời ban hành cơ chế, chính sách liên quan nhằm huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn lực tín dụng chính sách xã hội; tạo điều kiện cho NHCSXH mở rộng huy động nguồn lực từ các cá nhân, tổ chức và xã hội; từng bước mở rộng đối tượng chính sách xã hội được vay vốn, nâng mức cho vay, thời hạn cho vay phù hợp với mục tiêu các chương trình mục tiêu quốc gia và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội Đất nước.

Ba là, tập trung nguồn lực cho NHCSXH để thực hiện có hiệu quả các chương trình tín dụng chính sách xã hội. Tập trung nguồn lực Nhà nước thực hiện có hiệu quả các chương trình tín dụng chính sách xã hội, các chương trình mục tiêu quốc gia, đảm bảo thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng. Bố trí đủ, kịp thời nguồn vốn để thực hiện các chương trình tín dụng chính sách xã hội trong kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm trình cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và Luật Đầu tư công. Vốn điều lệ được bổ sung hằng năm tương ứng với tỷ lệ tăng trưởng tín dụng được Thủ tướng Chính phủ giao. Tập trung các nguồn vốn tín dụng chính sách có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, nguồn vốn có tính chất từ thiện và các nguồn vốn hợp pháp khác vào NHCSXH.

Bốn là, triển khai thực hiện tốt các chương trình tín dụng chính sách xã hội được giao. Phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương các cấp, các tổ chức chính trị - xã hội nhận ủy thác tổ chức thực hiện có hiệu quả các chương trình tín dụng chính sách xã hội nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn phục vụ sản xuất kinh doanh, tạo sinh kế, nâng cao đời sống cho người nghèo và các đối tượng chính sách khác, góp phần thực hiện mục tiêu giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, đảm bảo an sinh xã hội. Chủ động rà soát, đánh giá kết quả thực hiện các chính sách hiện hành để kịp thời đề xuất sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với quy định của pháp luật, thực tiễn hoạt động tín dụng chính sách xã hội với chủ trương đổi mới, mở rộng chính sách tín dụng theo hướng tăng định mức, mở rộng đối tượng được vay đến các dự án sản xuất, kinh doanh tạo sinh kế cho người nghèo và các đối tượng chính sách khác, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số.

Năm là, duy trì và phát huy hiệu quả mô hình tổ chức và phương thức quản lý tín dụng chính sách đặc thù. Phát huy vai trò, trách nhiệm của hội đồng quản trị, ban đại diện hội đồng quản trị các cấp trong việc tham mưu, hoạch định chính sách, chỉ đạo, giám sát thực thi các chính sách tín dụng ưu đãi của Nhà nước và quản trị NHCSXH hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của Chủ tịch UBND cấp xã, sự tham gia, giám sát của trưởng cấp thôn trong việc quản lý nguồn vốn tín dụng trên địa bàn nhằm phát huy hiệu quả nguồn vốn, nâng cao chất lượng tín dụng chính sách xã hội. Nghiên cứu hoàn thiện quy trình nghiệp vụ ủy thác một số nội dung công việc trong quy trình nghiệp vụ tín dụng. Thường xuyên kiện toàn, củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của Tổ Tiết kiệm và vay vốn và năng lực cho đội ngũ ban quản lý Tổ Tiết kiệm và vay vốn; chú trọng, tăng cường kiểm tra, giám sát, hỗ trợ hộ vay vốn sử dụng vốn vay đúng mục đích, hiệu quả với phương châm “thấu hiểu lòng dân, tận tâm phục vụ”.

Sáu là, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống kiểm tra, giám sát. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của hội đồng quản trị, ban đại diện hội đồng quản trị các cấp, phát huy vai trò của ban kiểm soát đối với hoạt động của NHCSXH; gắn hiệu quả hoạt động giám sát, kiểm toán nội bộ với việc nâng cao khả năng cảnh báo sớm đối với những rủi ro tiềm ẩn trong hệ thống NHCSXH. Nâng cao vai trò, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống kiểm tra, giám sát; đảm bảo tính độc lập, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và phối hợp chặt chẽ giữa kiểm tra, kiểm soát và kiểm toán nội bộ; đổi mới phương pháp và kỹ năng kiểm tra, kiểm soát phù hợp với hoạt động của NHCSXH.

Bảy là, đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ với các tính năng hiện đại, chi phí hợp lý, phù hợp với đối tượng khách hàng của NHCSXH. Nghiên cứu, phát triển đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ theo hướng hiện đại, tiện lợi, dễ sử dụng, chi phí phù hợp với nhu cầu và khả năng chi trả của khách hàng khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, người có thu nhập thấp, người yếu thế, các doanh nghiệp nhỏ, các hợp tác xã, nhằm thực hiện tốt Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, phù hợp với hoạt động của NHCSXH.

Tám là, nâng cao năng lực tài chính đảm bảo sự phát triển ổn định, bền vững của NHCSXH. Bố trí nguồn lực với cơ cấu hợp lý nhằm tiết giảm chi phí đầu vào, hỗ trợ các đối tượng thụ hưởng tín dụng chính sách và thực hiện có hiệu quả các chương trình tín dụng chính sách xã hội. Phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính, sử dụng vốn tiết kiệm hiệu quả, nâng cao năng suất lao động. Tiếp tục thực hiện cơ chế ưu đãi về lãi suất phù hợp với khả năng tài chính của Nhà nước và của đối tượng vay vốn trong từng thời kỳ.

Chín là, chú trọng phát triển nguồn nhân lực theo hướng chất lượng cao đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tuyển dụng nguồn nhân lực có chất lượng đáp ứng yêu cầu phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng là đối tượng chính sách. Có chính sách thu hút được nguồn nhân lực chất lượng cao, nguồn nhân lực phù hợp với tín dụng chính sách xã hội tại các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và đặc biệt khó khăn. Tăng cường đào tạo, tập huấn nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, người lao động của NHCSXH giỏi về chuyên môn, có phẩm chất về đạo đức nghề nghiệp, có khả năng ứng dụng công nghệ thông tin, phương thức làm việc tiên tiến, hiện đại.

Mười là, nâng cao năng lực quản lý và xử lý nợ rủi ro. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu nhận biết, cảnh báo sớm rủi ro tín dụng nhằm hạn chế những rủi ro trong quá trình thực hiện tín dụng chính sách xã hội. Hoàn thiện quy chế phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro, quy định hướng dẫn xử lý rủi ro do nguyên nhân khách quan chặt chẽ, phù hợp với đối tượng, đảm bảo công khai, minh bạch, đủ nguồn lực để xử lý nợ bị rủi ro.

Mười một là, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển của NHCSXH. Phát triển hệ thống công nghệ thông tin nhằm đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số, hiện đại hóa ngành Ngân hàng, phù hợp với hoạt động đặc thù của tín dụng chính sách xã hội. Đầu tư, nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin nhằm đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ và nâng cao chất lượng hoạt động.

Mười hai là, tăng cường và nâng cao hiệu quả hoạt động hợp tác quốc tế và công tác truyền thông của NHCSXH; tiếp tục rà soát, đơn giản hóa thủ tục giải quyết công việc. Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, nhằm khai thác các nguồn lực hợp pháp để nâng cao năng lực hoạt động cho NHCSXH, đồng thời chia sẻ kinh nghiệm trong hoạt động tín dụng chính sách xã hội. Đẩy mạnh công tác truyền thông, trong đó chú trọng truyền thông đến vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và đặc biệt khó khăn nhằm tuyên truyền đầy đủ, kịp thời chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tín dụng chính sách xã hội, góp phần gia tăng niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

Tài liệu tham khảo:

1. Thủ tướng Chính phủ (2023). Quyết định số 05/QĐ-TTg ngày 4/1/2023 phê duyệt Chiến lược phát triển NHCSXH đến năm 2030.

2. Ngân hàng chính sách xã hội (2025). Báo cáo kết quả hoạt động của NHCSXH.

Ngày nhận bài: 20/9/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 26/9/2025; Ngày duyệt đăng: 30/9/2025