TS. Lương Thanh Hà

Học viện Ngân hàng

Email: halt@hvnh.edu.vn

Tóm tắt

Đề án áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế tại Việt Nam đã được chính thức thông qua theo Quyết định số 345/QĐ-BTC của Bộ tài chính. Tuy nhiên, bên cạnh những vướng mắc về từng bước tiến hành, đối tượng áp dụng và thay đổi cơ chế thì vấn đề nguồn nhân lực cũng đang là những rào cản trong quá trình tiến tới áp dụng chuẩn mực phức tạp và tiến bộ. Nghiên cứu này đi vào nhận dạng khó khăn trong vấn đề đào tạo nhân lực tại các trường đại học, yêu cầu hoàn thiện đào tạo và các giải pháp đề xuất để giải quyết các vướng mắc về đào tạo.

Từ khóa: IFRS, nhân lực kế toán, đào tạo, đại học, chương trình đào tạo, áp dụng IFRS

Summary

The scheme for adopting International Financial Reporting Standards (IFRS) in Vietnam has been officially approved under Decision No. 345/QĐ-BTC by the Ministry of Finance. However, beyond challenges related to the implementation roadmap, target entities, and changes in the regulatory framework, human resource issues remain a significant barrier to the adoption of these advanced and complex standards. This study focuses on identifying difficulties in accounting human resource training at universities, the need to improve training programs, and proposes solutions to address the existing obstacles in education

Keywords: IFRS, accounting human resources, training, university, curriculum, IFRS adoption

ĐẶT VẤN ĐỀ

Hiện nay bộ các Chuẩn mực báo cáo tài chính (BCTC) quốc tế (IFRS) bao gồm hơn 40 chuẩn mực, trong đó có một số chuẩn mực mới được ban hành và áp dụng trong một vài năm gần đây như IFRS 9 – Công cụ tài chính, IFRS 15 - Doanh thu từ các hợp đồng khách hàng, IFRS 16 – Thuê tài sản. Trong khi đó, 26 Chuẩn mực Kế toán Việt Nam được ban hành từ giai đoạn 2001 – 2005 được đánh giá là chưa sát với thực tiễn áp dụng và thực hành kế toán ở Việt nam. Do đó, một khoảng cách lớn giữa các chuẩn mực báo cáo tài chính Việt Nam (VAS) và các quy định IFRS đã được cập nhật liên tục trong thời gian qua. Tuy nhiên, không thể phủ nhận xu thế áp dụng IFRS trên phạm vi toàn cầu khi có tới 87% vùng lãnh thổ trên thế giới đã yêu cầu áp dụng IFRS cho các doanh nghiệp; trong đó 144 vùng/khu vực yêu cầu cho phần lớn các doanh nghiệp (IFRS, 2018). Trong khi đó, so với chính các quốc gia trong khu vực châu Á, Việt Nam được đánh giá là chưa tuân thủ tốt lộ trình áp dụng hoặc hội tụ với IFRS cho đến năm 2017 (Amelia, 2017). Ngày 16/3/2020, Bộ trưởng Bộ Tài chính Việt Nam mới chính thức ban hành Quyết định số 345/QĐ-BTC Phê duyệt Đề án áp dụng chuẩn mực BCTC quốc tế tại Việt Nam. Theo lộ trình này, quá trình sẽ được chia thành 3 giai đoạn:

(1) Giai đoạn chuẩn bị: từ năm 2020 đến hết năm 2021.

(2) Giai đoạn áp dụng tự nguyện cho một số doanh nghiệp (Tập đoàn kinh tế Nhà nước, công ty niêm yết..) từ năm 2022 đến hết năm 2025.

(3) Giai đoạn bắt buộc áp dụng từ sau năm 2025: Áp dụng ở cấp độ BCTC hợp nhất đối với các doanh nghiệp ở nhóm đối tượng áp dụng tự nguyện như trên.

Do đó, việc áp dụng IFRS vào hoàn cảnh Việt Nam cần đi cùng với quá trình Việt hóa, biên soạn đủ bộ IFRS cũng như sự thay đổi liên quan đến cơ chế, quản lý tài chính lẫn các đối tượng áp dụng tự nguyện trong giai đoạn đầu. Bên cạnh đó, để có thể áp dụng được thành công các quy định mới và hiện đại trong IFRS vào bối cảnh kinh tế Việt Nam, cần có nguồn nhân lực có trình độ, hiểu biết và kinh nghiệm liên quan đến IFRS. Do đó, vấn đề nghiên cứu tìm ra phương pháp để đưa chương trình đào tạo kế toán gần sát với các nội dung và yêu cầu áp dụng IFRS trong giai đoạn tới trở thành một trong những vấn đề thiết yếu để quá trình triển khai áp dụng IFRS ở Việt Nam thành công.

BỐI CẢNH ÁP DỤNG IFRS Ở VIỆT NAM

Theo IFRS foundation (2018), các chuẩn mực BCTC quốc tế giúp các đơn vị công bố thông tin minh bạch hơn, gia tăng trách nhiệm giải trình và góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế khi giúp nhà đầu tư xác định được cơ hội, rủi ro trong đầu tư vốn. Đối với các doanh nghiệp, IFRS giúp doanh nghiệp có được “ngôn ngữ kế toán” chung tin cậy làm giảm chi phí vốn và giảm chi phí báo cáo quốc tế.

Kể từ năm 2001, Hội đồng Chuẩn mực Kế toán quốc tế (IASB) đã chuyển đổi tên gọi các chuẩn mực mới từ Chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS) thành Chuẩn mực BCTC quốc tế (IFRS), bên cạnh một số IAS vẫn được công nhận. Sự chuyển đổi này mang ý nghĩa các chuẩn mực do IASB và Hội đồng giải thích lập BCTC quốc tế (IFRIC) biên soạn đi theo định hướng thị trường vốn. Phương thức lập BCTC được mô tả là tập trung vào mối quan hệ giữa doanh nghiệp với nhà đầu tư và tập trung vào luồng thông tin đến thị trường vốn. Có thể nói, các BCTC được lập theo IFRS tập trung vào đảm bảo, hỗ trợ mục đích của các các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, với ý nghĩa như ngôn ngữ chung, IFRS được coi là điều kiện để các doanh nghiệp và các tổ chức trên thế giới có một phương thức thống nhất trong công tác lập BCTC.

Với ý nghĩa cung cấp thông tin toàn diện, đúng đắn, kịp thời và do đó, nhà đầu tư sử dụng BCTC sẽ nhận được các thông tin về thị trường vốn, giảm được rủi ro trong việc đưa ra quyết định kinh tế, giảm sự khác biệt giữa các nước trong chuẩn mực kế toán các quốc gia, gia tăng minh bạch và từ đó giảm thiểu rủi ro cho các nhà đầu tư. Đáng chú ý, cơ sở giá trị hợp lý được đề cập nhiều hơn trong các IFRS, xuyên suốt trong các chuẩn mực IAS 16, 36, 38, 39, 40, IFRS 2, IFRS 3. Điều này giúp thay đổi cách thức ghi nhận, đo lường và trình bày các chỉ tiêu và khoản mục trên BCTC, tăng khả năng so sánh của các thông tin tài chính và tăng chất lượng thông tin cung cấp cho các nhà đầu tư, giảm sự bất định trong đầu tư, giảm rủi ro đầu tư, tăng hiệu quả của thị trường và giảm thiểu chi phí vốn.

Tuy nhiên, so với các quốc gia khác, nền kinh tế Việt Nam có những đặc thù trong quá trình lịch sử phát triển. Ngay từ rất sớm, các tổ chức nghề nghiệp đã được thành lập như Hộ Kế toán Việt Nam là thành viên của Liên đoàn Kế toán quốc tế (IFAC) là thành viên của Hiệp Hội Kế toán các nước ASEAN (AFA) từ năm 1998... Cho đến nay, đã có một số nguyên tắc, thông lệ và Chuẩn mực quốc tế về kế toán đã được chọn lựa và áp dụng rộng rãi ở Việt Nam như quy định trình bày BCTC theo IFRS như thông tư 210/2009/TT-BTC. Một số doanh nghiệp Việt Nam như các công ty bảo hiểm, công ty niêm yết đã bắt đầu lập BCTC theo IFRS dù chưa hoàn chỉnh. Tuy nhiên, số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) ở Việt Nam vẫn chiếm tới 98,1% trong tổng quy mô, theo tổng điều tra kinh tế năm 2017 với hạn chế về tổ chức bộ máy, nhân sự kế toán có thể là trở ngại với quá trình áp dụng IFRS.

Do đó, theo Quyết định số 345/QĐ-BTC của Bộ tài chính, con đường lựa chọn áp dụng chuẩn mực là tiến tới tuyên bố áp dụng đầy đủ IFRS nguyên mẫu cho các đơn vị có lợi ích công chúng, đồng thời ban hành VAS/VFRS cho các đối tượng không có lợi ích công chúng (ngoại trừ SME có chế độ kế toán riêng). Quan điểm này phù hợp với tầm nhìn lâu dài, được quốc tế thừa nhận, được thừa hưởng tất cả những lợi ích do IFRS mang lại, không phải liên tục ban hành lại VAS/VFRS khi Chuẩn mực quốc tế thay đổi. Qua đó tránh được sự lạc hậu do không cập nhật, bổ sung và ban hành kịp thời VAS/VFRS. Tuy nhiên, để có thể thực hiện được thành công lộ trình này thì bước đầu tiên là cần tiến hành Việt hóa các chuẩn mực IFRs, đảm bảo truyền tải đúng tinh thần, quy định và hạn chế khác biệt do hàng rào ngôn ngữ đang trở thành vấn đề quan trọng. Bằng chứng cho thấy, kể từ khi ban hành Đề án áp dụng IFRS (tháng 3/2020) đến nay, vấn đề thống nhất bản dịch vẫn đang là trở ngại lớn trong việc xúc tiến ban hành bộ IFRS Việt hóa cho các doanh nghiệp tự nguyện.

THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN TỪ VIỆC ÁP DỤNG IFRS ĐỐI VỚI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VIỆT NAM

Theo phân tích của TS. Mai Ngọc Anh (2017), vấn đề áp dụng IFRS và đào tạo kế toán theo hướng chuẩn mực BCTC quốc tế là cơ hội lớn để các trường đại học Việt Nam đổi mới và chuyển mình. Trên thực tế, đề án và lộ trình áp dụng IFRS ở Việt Nam có thể nhìn nhận như công cuộc cải cách kế toán lần thứ ba, đánh dấu một bước quyết định trong quá trình hội nhập toàn diện của kế toán Việt Nam với thế giới. Tuy nhiên, với sự hạn chế về kinh nghiệm và thực tiễn, quá trình đào tạo nhân lực kế toán có thể đáp ứng quá trình áp dụng IFRS ở Việt Nam có thể vấp phải những thách thức và khó khăn.

Một số thuận lợi

Hiện nay, Việt Nam có hơn 200 trường đang đào tạo ngành kế toán và kiểm toán ở nhiều cấp bậc khác nhau từ cao đẳng, đại học, cao học và chương trình nghiên cứu tiến sĩ… Theo đánh giá chung, chúng ta đã có một số cải cách cả nội dung lẫn hình thức giảng dạy, tích cực quốc tế hóa chương trình đạo tạo đạt chuẩn với việc tích hợp môn học kế toán quốc tế giảng dạy bằng tiếng Anh hoặc liên kết với chương trình đào tạo của các trường đại học trên thế giới. Do đó, quá trình đào tạo tích hợp nội dung IFRS thời gian tới có thể thực hiện được tại các trường đại học cũng như cơ sở đào tạo chuyên nghiệp dựa trên những thuận lợi sau:

Thứ nhất, trong thời gian tới các trường đại học sẽ đón nhận nhu cầu người học gia tăng. Với điều kiện chuyển biến tích cực trong bối cảnh kinh tế - xã hội ở Việt Nam, quá trình áp dụng IFRS là không thể trì hoãn. Trong khoảng 3 – 5 năm chuẩn bị, các trường đại học sẽ đối mặt với nhu cầu gia tăng về đào tạo chuyên sâu, có hệ thống về IFRS để có thể đáp ứng nhu cầu thực tiễn, hội nhập trong khuôn khổ AEC cũng như trong khu vực. Vấn đề tổ chức đào tạo chuyên sâu về kinh tế quốc tế tại các trường đại học được đặt ra như một tất yếu khách quan, để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn cũng như giúp cho quá trình áp dụng IFRS được tiến hành thành công.

Thứ hai, các trường đại học đã có thời gian chuẩn bị lâu dài để đổi mới. Có thể thấy, kể từ năm 1990 tới nay, mỗi khi những thay đổi, cải cách căn bản về hệ thống kế toán, các cơ sở đào tạo và trường đại học đều nhanh chóng chuyển đổi chương trình, phương pháp dạy học để đáp ứng sự thay đổi. Việc IFRS có lộ trình áp dụng chính thức sẽ là tiền đề mạnh mẽ thúc đẩy sự thay đổi hệ thống đào tạo ở các trường đại học. Đặc biệt, có rất nhiều cơ sở đào tạo như Khoa Kế toán – Kiểm toán, Học viện ngân hàng và một số trường khác đã tích cực tích hợp, liên kết chương trình đào tạo theo hướng phù hợp với chuẩn mực IFRS từ nhiều năm qua.

Thứ ba, các hoạt động liên kết với các trường đại học quốc tế, tổ chức nghề nghiệp kế toán quốc tế giúp thu hẹp khoảng cách trong đào tọa IFRS và thông lệ quốc tế. Trên thực tế, nhiều trường đại học trong nước hiện nay đã và đang có kế hoạch triển khai các chương trình đào tạo kết với các trường đại học ở nước ngoài về kế toán như Học viện Ngân hàng. Sự xuất hiện của các tổ chức Hiệp Hội nghề nghiệp quốc tế về kế toán như ACCA, CPA Ustralia, ICAEW khiến cho môi trường kế toán được cải thiện, gia tăng nhận thức và tạo điều kiện nâng cao chương trình đào tạo kế toán tại các trường đại học. Đặc biệt là gia tăng nhận thức về hội nhập về kế toán và đào tạo kế toán tại Việt Nam.

Nhìn chung, chương trình đào tạo của các trường đại học Việt Nam đều có các môn học có nội dung đào tạo kế toán quốc tế ở các mức độ khác nhau. Tuy nhiên, nội dung này thường chỉ chiếm từ 5% đến 10% dung lượng đào tạo các môn học cơ sở ngành và chuyên ngành (Mai Ngọc Anh, 2017).

Một số khó khăn

So với các quốc gia trong khu vực đã đi trước nhiều năm, quá trình triển khai và áp dụng IFRS ở Việt Nam có thể khiến các trường đại học và cơ sở đào tạo vướng phải những khó khăn về điều kiện vật chất và nhân lực đào tạo.

Thứ nhất, tồn tại sự khác biệt và tồn tại trong quy trình đào tạo kế toán. Như trên đã phân tích, khuynh hướng và kim chỉ nam trong hoàn thiện IFRS được Ủy ban chuẩn mực thực hiện nhằm đảm bảo lợi ích của người đầu tư, thực hiện theo hướng ban hành các chuẩn mực hướng dẫn (Principles – based). Trong khi đó, việc áp dụng kế toán ở Việt Nam là dựa trên chế độ hướng dẫn kế toán và các quy định tài chính chi phối (Rules – based system). Do đó, chương trình đào tạo các trường về kế toán suốt nhiều năm qua thiên về thiết kế phù hợp với chế độ kế toán, thậm chí đề cập tới VAS tương đối hạn chế. Để đảm bảo được nguồn nhân lực đầu ra đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, cách triển khai giảng dạy các môn học kế toán tại các trường đại học phần nhiều thiên về mặt kỹ thuật. Vấn đề này dẫn đến cách tổ chức chương trình đạo tạo, liên kết ma trận học phần liên quan đến nội dung các môn học về kế toán mà chủ yếu dựa vào VAS và các Chế độ kế toán cụ thể. Thậm chí, có thể thấy cách giảng dạy một số môn học kế toán xoay quanh các văn bản pháp luật về kế toán, như các thông tư, nghị định.. Vì vậy, khi chuyển hướng đào tạo IFRS một cách có hệ thống, trong thời gian tới sẽ khiến các trường đại học và giảng viên gặp khó khăn.

Thứ hai, hạn chế về nguồn nhân lực giảng viên có trình độ. Việc ban hành các VAS trên nền tảng nghiên cứu, kế thừa và vận dụng chuẩn mực quốc tế đặt ra yêu cầu nghiên cứu, học tập về chuẩn mực kinh tế quốc tế (IAS, IFRS). Việc đào tạo các chuẩn mực kế toán đã được một số trường tiếp cận song chưa mang tính phổ biến. Theo đó, cách thức đánh giá kết quả trong các kì thi liên quan thường thiên về kĩ thuật và kĩ năng học thuộc. Vì vậy, ngay cả khi đưa các môn học về kế toán quốc tế vào giảng dạy, với công nghệ và cách tiếp cận đào tạo như hiện nay cũng sẽ làm hạn chế nội dung, hiểu biết và khả năng nghiên cứu của người học.

Nguồn nhân lực giảng viên có trình độ, chứng chỉ nghề nghiệp quốc tế tại các trường vẫn rất hạn chế. Số lượng giảng viên có khả năng tự đào tạo/đào tạo chuyên sâu về kế toán quốc tế và khả năng nghiên cứu bằng tiếng Anh còn thấp, chưa tới 20% giảng viên của các trường. Bên cạnh đó, nguồn lực đầu tư về cơ sở vật chất của các trường đại học còn khá hạn chế, hệ thống học liệu định hướng theo kế toán quốc tế chưa phổ biến.

Thứ ba, rào cản về ngôn ngữ để hiểu được và truyền tải nội dung các chuẩn mực IFRS. Các chuẩn mực IFRS được trình bày bằng ngôn ngữ Anh, do đó để có thể nhanh chóng tiếp cận các nội dung, kiến thức và kinh nghiệm về đào tạo IFRS, các giảng viên và người dạy cần phải tiếp cận các học liệu, tài liệu và chương trình đào tạo gốc bằng tiếng Anh.

Thứ tư, hạn chế về nguồn lực tài chính. Quá trình tích hợp nội dung đào tạo IFRS tại các trường đia học dự kiến sẽ tốn kém chi phí lớn và cần huy động nguồn lực đầu vào có đủ trình độ, kinh nghiệm. Để áp dụng IFRS còn cần đi đôi với sự đổi mới công nghệ đào tạo, phương pháp giảng dạy và điều kiện cơ sở vật chất.

KẾT LUẬN VÀ Một SỐ KHUYẾN NGHỊ

Với sự ra đời của Đề án áp dụng chuẩn mực BCTC quốc tế ở Việt Nam, việc chuyển đổi chương trình đào tạo kế toán đáp ứng nhu cầu nhân lực có kiến thức và áp dụng được IFRS là rất cấp thiết. Đối mặt với những thuận lợi và khó khăn trên, tác giả đề xuất một số khuyến nghị như sau:

Thứ nhất, các trường cần triển khai sớm khung chương trình phù hợp với định hướng áp dụng IFRS. Tuy nhiên, cần chú ý rằng lộ trình áp dụng IFRS có hướng đến sự phân hóa đối tượng áp dụng, bao gồm các doanh nghiệp áp dụng tự nguyện, tiến đến các doanh nghiệp bắt buộc áp dụng và một phần lớn các doanh nghiệp không yêu cầu áp dụng. Điều này yêu cầu các trường đại học cần xác định rõ phân khúc của mình trong thị trường lao động kế toán cũng như gắn với khảo sát kết quả phân bổ nguồn lực đầu ra để triển khai xây dựng chương trình phù hợp. Trong giai đoạn sớm có thể kết hợp các môn học IFRS dưới dạng tự chọn, tiến đến bắt buộc khi quá trình áp dụng IFRS được yêu cầu phổ rộng.

Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi sau đó cần thực hiện theo lộ trình xây dựng chương trình đào tạo độc lập, có thể theo hướng chuyên ngành (như chuyên ngành “Kế toán quốc tế”, bên cạnh chuyên ngành kế toán, kiểm toán…) để giúp người học xác định được mục tiêu và nội dung đào tạo. Theo hướng này, sản phẩm đầu ra là những đối tượng có chất lượng cao, có khả năng hội nhập quốc tế được xác định là trọng tâm. Bên cạnh đó, đầu vào cần đảm bảo trình độ về ngoại ngữ và thỏa mãn yêu cầu cơ bản. Từ đó, đầu ra của chương trình đào tạo độc lập này sẽ là những kế toán có khả năng kế toán chung, có hiểu biết sâu về IFRS và có thể thích ứng với môi trường làm việc áp dụng đầy đủ IFRS.

Thứ hai, các trường cần sớm triển khai các chương trình đào tạo cho giảng viên về IFRS. Bên cạnh các khóa đào tạo, các trường có thể xây dựng lộ trình đổi mới giảng dạy, tiếp cận sâu rộng với công nghệ, tăng cường vốn ngoại ngữ….

Thứ ba, để chuẩn bị thành công cho công tác đào tạo tại các trường đại học cũng cần có sự chung tay hỗ trợ từ các Bộ, ngành và sự liên kết với các tổ chức nghề nghiệp kế toán. Trước mắt, quá trình án hoàn thiện bản dịch chuẩn mực IFRS và thống nhất các thuật ngữ, quy định cần có sự tham gia của các trường đại học. Điều này nhằm gia tăng sự hiểu biết ban đầu về vai trò, vị trí cũng như quá trình chuyển ngữ của IFRS. Thêm vào đó, các tổ chức nghề nghiệp quốc tế (ACCA, ICAEW, CPA Australia,...) cần được khuyến khích chia sẻ, hỗ trợ các trường đại học cũng như cơ sở đào tạo về triển khai giảng dạy chương trình, môn học về IFRS.

Tài liệu tham khảo

1. Amelia Limijaya (2017). ‘IFRS Application in Southeast Asian Countries: Where Does Indonesia Stand?’ 2th Asia-Pacific Conference on Global Business, Economics, Finance and Social Sciences.

2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Nhóm Ngân hàng Thế giới (2016). Báo cáo Việt Nam 2035.

3. IFRS foundation (2018). Use of IFRS around the world overview, link https://www.ifrs.org/content/dam/ifrs/around-the-world/adoption/use-of-ifrs-around-the-world-overview-sept-2018.pdf

4. Mai Ngọc Anh (2017). Đào tạo Chuẩn mực quốc tế về BCTC(IFRS): Cơ hội và thách thức đối với các trường Đại học Việt Nam, Hội thảo IFRS – Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam.

5. Trần Mạnh Dũng & Nguyễn Thúy Hồng (2016). Giảng IFRS trong đào tạo kế toán, Tạp chí Kế toán & Kiểm toán, truy cập tại http://vaa.net.vn/Tin-tuc/Tin-chi-tiet/newsid/3951/GIANG-IFRS-TRONG-DAO-TAO-KE-TOAN.

Ngày nhận bài: 14/6/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 23/6/2025; Ngày duyệt xuất bản: 26/6/2025