Lê Thị Hồng Tâm

Email: lethihongtam0106@gmail.com

Nguyễn Thị Thu Trang

Email: ntttrang.spktnd@moet.edu.vn

Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định

Hoàng Thị Huyền

Công ty TNHH Thuốc lá Hải Phòng

Email: huyenhtbsg@gmail.com

Tóm tắt

Nghiên cứu phân tích thực trạng kỹ năng của lao động Việt Nam trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ. Kết quả cho thấy khoảng trống trong kỹ năng của người lao động hiện nay, đó là tỷ lệ lao động không có kỹ năng giảm nhưng khoảng cách giữa trình độ đào tạo và yêu cầu việc làm tiếp tục gia tăng. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề xuất 3 nhóm giải pháp: (i) xây dựng Sổ lao động điện tử; (ii) tăng cường kết nối cung - cầu trên thị trường; (iii) nâng cao tự chủ đào tạo và hợp tác với doanh nghiệp, nhằm trang bị cho người lao động những kỹ năng cần thiết để đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực quốc gia.

Từ khóa: Kỹ năng, nguồn nhân lực, chất lượng nguồn nhân lực

Summary

This study analyzes the current state of Vietnamese workers’ skills amid the profound impacts of the Fourth Industrial Revolution and international economic integration. The findings reveal existing skill gaps: although the proportion of unskilled workers has declined, the mismatch between educational attainment and job requirements continues to widen. Based on these insights, the study proposes three solution groups: (i) establishing a digital labor record system; (ii) strengthening supply-demand linkages in the labor market; and (iii) enhancing training autonomy and promoting cooperation with enterprises. These measures aim to equip workers with essential skills to meet labor market demands and enhance the overall quality of the national workforce.

Keywords: Skills, human resources, workforce quality

ĐẶT VẤN ĐỀ

Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào, nhưng tỷ lệ lao động có tay nghề và trình độ chuyên môn khá thấp so với nhiều nước trong khu vực. Sự thiếu hụt kỹ năng đang là một trong những trở ngại lớn đối với năng lực cạnh tranh của Việt Nam trong nền kinh tế toàn cầu (Nguyễn Quốc Việt và Nguyễn Minh Thảo, 2012). Theo Báo cáo điều tra lao động việc làm năm 2013 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO, 2014a), chưa đến 20% lực lượng lao động của Việt Nam được đào tạo chuyên môn và những kỹ năng mà hệ thống giáo dục trang bị cho lao động thường không phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động. Tình trạng làm việc trái ngành, vượt hoặc dưới trình độ đào tạo ngày càng gia tăng. Điều này phản ánh sự bất cập giữa đào tạo và sử dụng lao động.

Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, robot thế hệ mới cùng xu hướng chuyển đổi số đã và đang làm thay đổi mạnh mẽ cơ cấu việc làm. Song song với đó, định hướng phát triển kinh tế - xã hội bền vững và tăng trưởng xanh thúc đẩy sự gia tăng các công việc thâm dụng tri thức, năng suất cao và tạo ra giá trị gia tăng lớn. Những biến đổi này đặt ra yêu cầu tất yếu về một lực lượng lao động có chất lượng, trình độ và kỹ năng cao, đồng thời làm gia tăng khoảng cách giữa kỹ năng hiện có của người lao động với yêu cầu công việc trong tương lai.

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

Khái niệm

Theo Danh mục nghề nghiệp Việt Nam năm 2020 ban hành kèm theo Quyết định số 34/2020/QĐ-TTg ngày 26/11/2020 của Thủ tướng Chính phủ, kỹ năng được định nghĩa là “khả năng thực hiện các nhiệm vụ của một việc làm nhất định. Kỹ năng được chia thành: cấp độ kỹ năng và kỹ năng chuyên môn”. Cấp độ kỹ năng thể hiện độ khó, độ phức tạp trong việc thực hiện nhiệm vụ và được phân thành 5 cấp độ từ 1 đến 5. Kỹ năng chuyên môn bao gồm lĩnh vực chuyên môn (tương ứng các nhóm ngành nghề đào tạo) mà công việc đòi hỏi, các công cụ máy móc đã sử dụng, các nguyên vật liệu dùng trong sản xuất và các loại sản phẩm dịch vụ đã làm ra.

Nhiều học giả và tổ chức quốc tế đã tiếp cận khái niệm kỹ năng dưới các góc nhìn khác nhau. Packard và Nguyễn (2014); Valerio và cộng sự (2014) đã chia các kỹ năng thành 3 nhóm: (i) kỹ năng nhận thức bao gồm tính toán, giải quyết vấn đề, giao tiếp bằng lời nói và trí nhớ; (ii) kỹ năng hành vi/cảm xúc xã hội bao gồm tinh thần nhóm, nỗ lực làm việc, độ tin cậy và kỷ luật; và (iii) kỹ năng liên quan đến kỹ thuật/công việc cụ thể. Một số nghiên cứu khác đã kết hợp các kỹ năng xã hội và kỹ năng nhận thức thành “kỹ năng cốt lõi” (ILO, 2008) và “kỹ năng chuyển tiếp” (UNESCO, 2015). Theo các tổ chức quốc tế, kỹ năng thường được phân loại thành 3 lĩnh vực chính: kỹ năng nền tảng, kỹ năng chuyển việc, kỹ năng kỹ thuật và dạy nghề.

Thực trạng chênh lệch kỹ năng

Nghiên cứu của Mori (2019) cho thấy tỷ lệ tốt nghiệp các khoá đào tạo nghề (sơ cấp, trung cấp và cao đẳng) ở Việt Nam giảm nhẹ từ 5,3% năm 2007 xuống còn 5,0% năm 2015; trong khi đó, tỷ lệ lao động có trình độ đại học trở lên tăng từ 4,9% lên 8,5% trong cùng giai đoạn. Đặc biệt, khu vực công nghiệp đang ngày càng thu hút được nhiều lao động có trình độ học vấn cao hơn, nhưng không làm thay đổi cơ cấu trình độ và cơ cấu nghề nghiệp tổng thể.

Nghiên cứu của Vũ Hoàng Đạt (2020) chỉ ra rằng, số lượng đào tạo cao đẳng và đại học ở Việt Nam tăng rất nhanh trong giai đoạn 2010-2017, nhưng thị trường lao động không hấp thụ được sự tăng trưởng nhanh chóng này, ít nhất trong ngắn hạn. Điều này được phản ánh qua tỉ lệ lao động trẻ tốt nghiệp cao đẳng, đại học làm các công việc có yêu cầu trình độ chuyên môn thấp hơn tăng rất nhanh trong giai đoạn này.

Theo Rathelot và Rens (2017), có 3 nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng chênh lệch kỹ năng: (i) người lao động không cập nhật các kỹ năng mới cần thiết để tìm việc làm; (ii) doanh nghiệp không điều chỉnh theo những thay đổi về nguồn cung kỹ năng bằng cách tạo ra việc làm sử dụng các kỹ năng sẵn có trên thị trường lao động; và (iii) tiền lương không khuyến khích người lao động học những kỹ năng hiếm hoặc từ bỏ các công việc khác.

Các nhân tố tác động đến chênh lệch kỹ năng

Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD, 2015) cho rằng, chênh lệch kỹ năng được hình thành từ 2 yếu tố chính: (i) đặc điểm cá nhân và nơi làm việc/công việc; (ii) những bất cập chính sách gây ra sự dịch chuyển lao động.

Đặc điểm cá nhân và nơi làm việc/công việc bao gồm tuổi, giới tính, tình trạng hôn nhân, tình trạng di cư, trình độ học vấn, loại hợp đồng lao động, quy mô doanh nghiệp, khu vực làm việc và các yếu tố khác còn tuỳ thuộc vào định nghĩa, loại chênh lệch và tuỳ từng quốc gia. Yếu tố chính sách như chính sách khung (chính sách bảo hộ người lao động, chính sách điều tiết thị trường sản phẩm, chi phí đóng cửa doanh nghiệp, chi phí chuyển đổi, chính sách học tập suốt đời, chất lượng quản lý…) và chính sách khác như chính sách nhà ở, chính sách giáo dục, chính sách thị trường lao động… có tác động đến sự chênh lệch kỹ năng

Lý thuyết về phân công lao động của Smith A (1776) chỉ ra mối liên hệ giữa kỹ năng của người lao động và yêu cầu kỹ năng của công việc, nhấn mạnh vai trò của yếu tố cá nhân và đặc điểm của công việc để xác định sự chênh lệch kỹ năng.

CÁCH TIẾP CẬN VÀ DỮ LIỆU SỬ DỤNG

Cách tiếp cận

Nghiên cứu sử dụng cách tiếp cận của kinh tế học lao động, trong đó thị trường lao động được xem xét dưới góc độ lợi ích kinh tế của 3 chủ thể gồm: doanh nghiệp, người lao động và chính phủ. Doanh nghiệp với tư cách là bên sử dụng lao động và người lao động với tư cách cung cấp lao động là 2 chủ thể chính trên thị trường lao động, bên cạnh sự hiện diện của chính phủ với vai trò tạo lập thể chế cho thị trường lao động vận hành thuận lợi. Trong khuôn khổ này, cầu kỹ năng do doanh nghiệp đặt ra được so sánh với cung kỹ năng từ hệ thống đào tạo và quá trình tự học hỏi, trau dồi của người lao động. Mức độ phù hợp hoặc chênh lệch giữa cầu kỹ năng của doanh nghiệp và cung kỹ năng từ hệ thống đào tạo chịu tác động trực tiếp của các chính sách giáo dục - đào tạo, phát triển nguồn nhân lực và điều tiết thị trường lao động.

Dữ liệu sử dụng

Nghiên cứu khai thác 2 nguồn dữ liệu chính: (1) Điều tra lao động việc làm do Tổng cục Thống kê, nay là Cục Thống kê thực hiện định kỳ; (2) Điều tra nhu cầu sử dụng lao động trong các loại hình doanh nghiệp. Các dữ liệu này được tổng hợp, so sánh, phân tích, đánh giá về thực trạng chênh lệch kỹ năng của người lao động ở Việt Nam hiện nay.

THỰC TRẠNG KỸ NĂNG CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG VIỆT NAM HIỆN NAY

Lao động có việc làm

Tính đến năm 2023, cả nước có 51,287 triệu lao động có việc làm, chiếm khoảng 52,2% dân số. Tốc độ tăng việc làm giai đoạn 2012-2019 bình quân đạt 0,88%/năm. Tuy nhiên, năm 2020-2021 số lượng việc làm giảm mạnh do tác động của đại dịch COVID-19, sau đó phục hồi dần vào năm 2022-2023. Cơ cấu việc làm giữa khu vực nông thôn và thành thị có sự thay đổi đáng kể. Lao động có việc làm ở nông thôn vẫn chiếm tỷ lệ cao nhưng xu hướng giảm dần theo thời gian; trong khi đó, tỷ lệ có việc làm ở thành thị tăng lên, phản ánh dòng di cư lao động từ nông thôn ra thành thị.

Hình 1: Số lượng và tỷ lệ lao động có việc làm theo khu vực nông thôn và thành thị, giai đoạn 2012-2023

Kỹ năng lao động Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư: Thực trạng và giải pháp
Nguồn: Báo cáo lao động việc làm các năm, Niên giám thống kê năm 2023

Tỷ lệ thất nghiệp

Giai đoạn 2012-2019, tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam luôn duy trì ở mức thấp. Từ năm 2012-2015, tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng tăng nhẹ, từ năm 2015-2019 lại có xu hướng giảm. Riêng năm 2019, tỷ lệ thất nghiệp chung là 2,17%, trong đó tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị là 3,11%; khu vực nông thôn là 1,69%. Đại dịch COVID-19 xuất hiện tại Việt Nam từ tháng 1/2020 đã tác động mạnh đến thị trường lao động, làm tăng tỷ lệ thất nghiệp. Năm 2021, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị là 4,33%; ở khu vực nông thôn là 2,5%. Đến năm 2023, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động năm 2023 là 2,28%, giảm 0,06% điểm phần trăm so với năm trước.

Hình 2: Tỷ lệ thất nghiệp theo khu vực nông thôn và thành thị, giai đoạn 2012-2023

Kỹ năng lao động Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư: Thực trạng và giải pháp
Nguồn: Báo cáo lao động việc làm các năm, Niên giám thống kê năm 2023

Trình độ học vấn và kỹ năng của lao động

Một đặc điểm nổi bật của lực lượng lao động Việt Nam là tính trẻ, với ưu thế về sức khỏe, khả năng tiếp thu kiến thức mới, nắm bắt công nghệ nhanh và tính linh hoạt trong di chuyển. Trong giai đoạn 2009-2019, tỷ lệ lao động có trình độ học vấn thấp (chưa đi học, chưa tốt nghiệp tiểu học hoặc chỉ tốt nghiệp tiểu học) giảm rõ rệt, trong khi tỷ lệ lao động tốt nghiệp trung học phổ thông (THPT) trở lên tăng nhanh. Xu hướng này góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo điều kiện để lao động trẻ tham gia các công việc đòi hỏi kỹ năng cao hơn.

Trong giai đoạn 2012-2022, trình độ kỹ năng của lao động có việc làm cải thiện đáng kể. Tỷ lệ lao động không có kỹ năng giảm từ 40,5% xuống còn 24,7%. Ngược lại, tỷ lệ lao động có kỹ năng thấp tăng từ 49,3% lên 63,3%, trong khi lao động có kỹ năng cao tăng từ 6,1% lên 7,9%. Tỷ lệ lao động có kỹ năng trung bình gần như không thay đổi. Sự thay đổi này phản ánh trình độ của người lao động đã được cải thiện rõ rệt trong vòng 10 năm qua. Lao động không có kỹ năng đã chuyển một phần sang lao động có kỹ năng thấp. Điều này là hợp quy luật, khi lực lượng lao động đang được trẻ hóa; những lao động nhiều tuổi thuộc thế hệ cũ (đa số không có trình độ, không được đi học) được thay thế bằng những lao động trẻ (có qua đào tạo nghề hoặc được đi học). Tương ứng với đó là sự dịch chuyển từ lao động giản đơn không có kỹ năng sang lao động kỹ năng thấp.

Hình 3: Cơ cấu kỹ năng của lao động Việt Nam

Kỹ năng lao động Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư: Thực trạng và giải pháp

Nguồn: Tính toán từ điều tra lao động và việc làm của Tổng cục Thống kê (2012-2022)

Xét theo giới tính, giai đoạn 2012-2022, cơ cấu lao động có sự chuyển biến rõ rệt về trình độ kỹ năng theo hướng giảm tỷ trọng ở lao động nữ và tăng tỷ trọng ở lao động nam. Năm 2012, tỷ lệ lao động nữ trong tổng lao động có kỹ năng thấp, kỹ năng trung bình và kỹ năng cao tương ứng chiếm 45,7%, 52,6% và 48,4%; đến năm 2022 tỷ lệ này là 44,9%, 52,9% và 53,8%.

Xét theo nhóm tuổi, có xu hướng giảm nhiều việc làm không có kỹ năng và tăng nhiều ở nhóm lao động có kỹ năng thấp ở cả nhóm tuổi thanh niên, trung niên và cao tuổi. Năm 2012, tỷ trọng lao động không có kỹ năng của nhóm tuổi từ 15-29 tuổi, từ 30-59 tuổi và trên 60 tuổi lần lượt là 42,0%, 38,5% và 53,3%; đến năm 2022, tỷ lệ tương ứng là 24,5%, 23,2% và 38,6%. Có thể thấy, lao động cao tuổi (trên 60 tuổi) có trình độ kỹ năng trung bình và kỹ năng cao vẫn đang tiếp tục làm việc (năm 2022 có khoảng 70.000 lao động ở nhóm này đang làm việc). Nguyên nhân những lao động cao tuổi tiếp tục làm việc xuất phát từ nhu cầu tăng thêm thu nhập phục vụ cho cuộc sống, mong muốn được đóng góp và cống hiến những kiến thức và kinh nghiệm tích lũy được trong quá trình làm việc.

Hình 4: Trình độ kỹ năng lao động theo nhóm tuổi

Đơn vị tính: Triệu người

Kỹ năng lao động Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư: Thực trạng và giải pháp

Nguồn: Tính toán từ điều tra lao động và việc làm của Tổng cục Thống kê (2012, 2022)

Sự phù hợp giữa yêu cầu kỹ năng của việc làm với trình độ lao động

Trong giai đoạn 2012-2022, mức độ phù hợp giữa việc làm và trình độ đào tạo của người lao động Việt Nam có nhiều thay đổi.

Năm 2012, trong tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế, có 50,6% lao động làm việc yêu cầu kỹ năng phù hợp với trình độ được đào tạo; 2,4% làm công việc yêu cầu kỹ năng thấp hơn và 46,9% làm công việc yêu cầu kỹ năng cao hơn. Đến năm 2022, các tỷ lệ này lần lượt là 42,2%, 6,4% và 51,4%. Những con số này cho thấy khoảng cách kỹ năng có xu hướng gia tăng, với tỷ lệ lao động làm việc vượt quá trình độ đào tạo ngày càng lớn.

Hình 5: Việc làm theo mức độ phù hợp giữa yêu cầu kỹ năng và trình độ lao động (%)

Kỹ năng lao động Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư: Thực trạng và giải pháp

Nguồn: Tính toán từ điều tra lao động và việc làm của Tổng Cục Thống kê (2012-2022)

Xét theo giới tính, giai đoạn 2012-2022, tỷ trọng việc làm phù hợp giảm ở cả nam và nữ, trong khi việc làm không phù hợp tăng. Cụ thể, năm 2012, tỷ lệ lao động nam và nữ có việc làm phù hợp lần lượt là 49,7% và 51,6%; đến năm 2022, con số này giảm xuống 43,0% và 41,4%. Ngược lại, tỷ lệ làm công việc yêu cầu thấp hơn trình độ ở lao động nam và nữ lần lượt tăng từ 2,9% và 2,0% năm 2012 lên 6,5% và 6,2% năm 2022.

Phân tích theo nhóm tuổi cho thấy, lao động trẻ (15-29 tuổi) có nguy cơ làm công việc dưới trình độ đào tạo cao hơn các nhóm tuổi khác. Năm 2022, tỷ lệ này ở nhóm thanh niên đạt 8,9%, trong khi nhóm tuổi 30-59 là 6,1% và nhóm từ 60 tuổi trở lên chỉ 2,8%. Điều này phản ánh sự lãng phí nguồn lực đào tạo ở lao động trẻ, khi nhiều cử nhân, kỹ sư phải đảm nhận công việc không tương xứng với trình độ chuyên môn.

Hình 6: Việc làm theo mức độ phù hợp giữa yêu cầu kỹ năng và trình độ lao động theo nhóm tuổi (%)

Kỹ năng lao động Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư: Thực trạng và giải pháp

Nguồn: Tính toán từ điều tra lao động và việc làm của Tổng cục Thống kê (2012-2022)

ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP

Trên cơ sở phân tích thực trạng, để trang bị cho người lao động các kỹ năng cần thiết, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động trong bối cảnh hội nhập và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhóm tác giả đề xuất một số giải pháp sau:

Thứ nhất, xây dựng Sổ lao động điện tử cho người lao động. Để triển khai giải pháp này cần tích hợp dữ liệu dân cư với dữ liệu về lao động, việc làm, trong đó mỗi người lao động có một mã định danh thống nhất (nên tích hợp với mã căn cước công dân). Hệ thống này sẽ hỗ trợ cập nhật thông tin về tình trạng việc làm, nhu cầu tuyển dụng và kỹ năng của lao động, đồng thời kết nối với các cơ sở dữ liệu quản lý trợ cấp thất nghiệp. Ngoài ra, cần phát triển ứng dụng di động chuyên dụng để người lao động tự cập nhật thông tin về trình độ, kỹ năng, nhu cầu việc làm, vị trí công tác…, đảm bảo dữ liệu luôn được cập nhật kịp thời và chính xác.

Thứ hai, tăng cường kết nối các chủ thể trên thị trường lao động, hay nói cách khác là tăng cường kết nối cung - cầu trên thị trường. Cần xây dựng và vận hành hiệu quả hệ thống thu thập, phân tích và chia sẻ thông tin thị trường lao động. Hệ thống này sẽ là cầu nối giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp, giúp xác định rõ nhu cầu kỹ năng hiện tại và tương lai. Đồng thời, cần nâng cao vai trò của Trung tâm dịch vụ việc làm, đơn vị có chức năng kết nối cung - cầu lao động nhưng hiện tại hoạt động chưa thực sự hiệu quả.

Thứ ba, nâng cao tính tự chủ của các cơ sở đào tạo và thúc đẩy hợp tác với doanh nghiệp. Các trường đại học và cơ sở giáo dục nghề nghiệp cần được tăng quyền tự chủ trong xây dựng chương trình đào tạo, đồng thời mở rộng hợp tác với doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần tham gia vào quá trình thiết kế chương trình và tổ chức đào tạo để đảm bảo kỹ năng của sinh viên, học viên sát với yêu cầu thực tiễn. Ngoài ra, cần thiết lập các cơ chế phối hợp ba bên (nhà trường - doanh nghiệp - cộng đồng) để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Các văn phòng giới thiệu việc làm tại trường đại học cũng cần được phát huy vai trò, cung cấp thông tin kịp thời và hỗ trợ sinh viên tiếp cận cơ hội việc làm phù hợp.

Tài liệu tham khảo:

1. ILO (2008). Conclusions on skills for improved productivity, employment growth and development: International Labour Conference, 2008. http://www.ilo.org/wcmsp5/groups/public/---ed_emp/---ifp_skills/documents/publication/wcms_103457.pdf

2. ILO (2014a). Skills mismatch in Europe: Statistics brief. https://www.ilo.org/sites/default/files/wcmsp5/groups/public/@dgreports/@stat/documents/publication/wcms_315623.pdf

3. Mori, J. (2019). Dynamic Skill Formation in Vietnam: Beyond Skill Mismatch Paradigm. Luận án Tiến sĩ.

4. Nguyễn Quốc Việt, Nguyễn Minh Thảo (2012). Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua phát triển kỹ năng lao động và vai trò của giáo dục phổ thông. Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Kinh tế và Kinh doanh, số 28, tr. 186-192.

5. OECD (2015). Skill mismatch and public policy in OECD countries. The Future of Productivity: Main Background Papers, số 28.

6. Packard T.G. & Nguyen T.V. (2014), East Asia Pacific at Work: Employment, Enterprise and Well-being, Washington DC: World Bank.

7. Rathelot, R., & Rens, T. (2017). Better understanding of skills mismatch is essential to finding effective policy options. IZA World of Labor.

8. Smith A. (1776). Của cải của các dân tộc. Nxb Giáo dục, 1997

9. Thủ tướng Chính phủ (2020). Quyết định số 34/2020/QĐ-TTg ngày 26/11/2020 ban hành Danh mục nghề nghiệp Việt Nam năm 2020.

10. UNESCO (2015). Transversal Skills in TVET: Pedagogues and Assessment. Bangkok: UNESCO Bangkok Office. https://bangkok.unesco.org/content/transversal-skills-tvet-pedagogies-andassessment.

11. Valerio, A. et al. 2014. STEP Skills Measurement: Snapshot 2014. Washington, DC: World Bank.

12. Vũ Hoàng Đạt (2020). Giáo dục và một số khía cạnh việc làm của lao động trẻ. Trong Bạch Ngọc Thắng & Lê Quang Cảnh (chủ biên), Việc làm và gia nhập thị trường lao động của giới trẻ: Lý thuyết và thực tiễn ở Việt Nam. Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân.

Ngày nhận bài: 3/9/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 20/9/2025; Ngày duyệt xuất bản: 24/9/2025