Mô hình nghiên cứu đề xuất đánh giá tác động của chuyển đổi số đến hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp ngành dịch vụ nhà hàng
Mai Xuân Sơn
Công ty Cổ phần Tập đoàn Du lịch Hải Đăng
Tóm tắt
Đi cùng với Cách mạng công nghiệp 4.0, cụm từ “chuyển đổi số” (CĐS) ngày càng xuất hiện một cách phổ biến hơn trong bối cảnh hội nhập và thương mại hóa đa quốc gia. Mục đích của nghiên cứu nhằm đề xuất mô hình nghiên cứu đánh giá tác động của CĐS đến hiệu quả kinh doanh trong các nhà hàng ngành dịch vụ nhà hàng. Trên cơ sở tổng quan các nghiên cứu trước đó, tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu gồm 1 biến độc lập là Chiến lược CĐS (được đo lường thông qua Chiến lược doanh nghiệp, Trải nghiệm khách hàng, Chuỗi cung ứng, Hệ thống quản trị dữ liệu, Quản lý rủi ro, Con người và tổ chức, Đầu tư vào hạ tầng và phần mềm công nghệ) và biến phụ thuộc là Hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp ngành dịch vụ nhà hàng ((được đo lường thông qua: Mức sinh lời và Tốc độ tăng trưởng).
Từ khóa: chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin, hiệu quả kinh doanh, ngành dịch vụ nhà hàng
Summary
Along with the Fourth Industrial Revolution, the phrase "digital transformation" has become more and more popular in the context of multinational integration and commercialization. The purpose of the study is to propose a research model to assess the impact of digital transformation on business performance in restaurants in the restaurant service industry. Based on an overview of previous studies, the author proposes a research model consisting of 1 independent variable, Digital Transformation Strategy (measured through Business Strategy, Customer Experience, Supply Chain, Data Management System, Risk Management, People and Organization, Investment in Infrastructure and Technology Software) and a dependent variable, Business Performance in restaurants in the restaurant service industry (measured through: Profitability and Growth Rate).
Keywords: digital transformation, information technology application, business performance, restaurant service industry
GIỚI THIỆU
Trong những năm gần đây, CĐS trở thành một nội dung quan trọng cấp quốc gia cũng như đối với các doanh nghiệp. Ở góc độ vĩ mô, CĐS hàm chứa sự thay đổi mạnh mẽ diễn ra trong xã hội và các ngành nghề thông qua công nghệ. Trên góc độ vi mô, có thể nhận thấy các doanh nghiệp đang hướng đến CĐS với các chiến lược kinh doanh có cân nhắc vấn đề CĐS, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Nhiều nghiên cứu được đưa ra đã giúp các nhà hoạch định chính sách và quản lý có thêm những góc nhìn cụ thể hơn về CĐS. Đánh giá về CĐS, các nghiên cứu cho rằng, nếu chỉ nói về duy nhất yếu tố công nghệ, thì chưa đầy đủ để đưa ra giải pháp toàn diện cho doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, nhằm duy trì lợi thế cạnh tranh trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0 hiện nay. Chính vì vậy, bài viết khái quát về khái niệm CĐS, tác động của CĐS tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó, đề xuất mô hình nghiên cứu đề xuất đánh giá tác động của CĐS đến hiệu quả kinh doanh trong ngành dịch vụ nhà hàng.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Khái niệm CĐS
Hiện nay, các định nghĩa về CĐS được đưa ra với 3 đặc điểm chính: Thứ nhất, CĐS được định nghĩa trong các nghiên cứu chủ yếu nhằm vào đối tượng là các tổ chức, doanh nghiệp; Thứ hai, các khái niệm đưa ra có những nét khác biệt nhau về các loại công nghệ theo các nghiên cứu của Horlacher và cộng sự (2016), nghiên cứu của Westerman và cộng sự (2011); hoặc khác biệt về bản chất của quá trình CĐS đang diễn ra theo nghiên cứu của Andriole (2017), Piccinini và cộng sự (2015b); Thứ ba, mặc dù có những sự khác biệt, nhưng các định nghĩa đều sử dụng chung thuật ngữ CĐS trong nghiên cứu (Matt và cộng sự, 2015). Như vậy, có thể hiểu, CĐS là một quá trình nhằm cải thiện chủ thể bởi những thay đổi quan trọng thông qua sự kết hợp của thông tin, máy móc, sự trao đổi và những công nghệ kết nối.
Vai trò của CĐS đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Trong những năm gần đây, chiến lược CĐS đã xuất hiện như một xu hướng mới trong nhiều nghiên cứu, thu hút đáng kể sự quan tâm của các chính phủ trên toàn thế giới. Trên thế giới, nền kinh tế số được đánh giá là một tâm điểm mới trong sự cạnh tranh giữa các quốc gia, các ngành và các doanh nghiệp. Hiện nay, một trong những vấn đề cấp bách cho doanh nghiệp chính là việc tích hợp và sử dụng công nghệ kỹ thuật số. Các chiến lược CĐS là yếu tố cần thiết đối với tất cả các ngành (Matt và cộng sự, 2015). Đồng thời, những thay đổi trong chiến lược CĐS được coi là một phản ứng nhanh chóng và hữu ích giúp doanh nghiệp chuyển đổi linh hoạt để phù hợp với xu thế và sự thay đổi của nền kinh tế số. Vì vậy, chiến lược CĐS là chiến lược ưu tiên trong quá trình nâng cao năng lực lãnh đạo của nhà quản trị (Matt và cộng sự, 2015). Hơn nữa, khi sử dụng công nghệ kỹ thuật số, doanh nghiệp có thể gia tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh thông qua các ứng dụng tự động hóa.
Ngày nay, CĐS sẽ giúp doanh nghiệp thay đổi những chiến lược thương mại còn hạn chế; PDI, dịch vụ của doanh nghiệp; thay đổi quy trình kinh doanh hợp lý. Do đó, trong thời đại kinh tế số, tự động hóa được coi là một chiến lược CĐS quan trọng và có sức ảnh hưởng đến quản lý các cấp trong doanh nghiệp (Bharadwaj và cộng sự, 2013). Dựa trên khảo sát từ các doanh nghiệp Mỹ và Anh, khoảng 90% nhà lãnh đạo cho rằng, công nghệ thông tin và công nghệ kỹ thuật thúc đẩy các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong thời gian dài (Besson và Rowe, 2012). Đối với các doanh nghiệp chưa áp dụng CĐS, việc xây dựng và triển khai các chiến lược CĐS có thể là động lực giúp doanh nghiệp hội nhập nhanh chóng, sâu rộng vào thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh, gia tăng sự nhạy bén trước và thích ứng với những thay đổi từ thị trường (Chanias và cộng sự, 2019). Nhiều nhà khoa học đã từng chứng minh trong nghiên cứu của mình về vai trò của công nghệ thông tin và chiến lược CĐS đối với doanh nghiệp. Cụ thể, tác giả đã khẳng định đây là một vũ khí cạnh tranh có thể tác động toàn diện đến chiến lược của doanh nghiệp, việc cạnh tranh dựa vào công nghệ sẽ giảm thiểu rủi ro khi doanh nghiệp bỏ lỡ các cơ hội đột phá trong kinh doanh.
Đánh giá về chiến lược CĐS, một số nghiên cứu chỉ ra rằng, chiến lược CĐS của công ty tương đương với chiến lược kinh doanh. Mặc dù ảnh hưởng của sự phát triển công nghệ số đối với các doanh nghiệp nằm ngoài khả năng dự đoán của nhà quản trị, nhưng chiến lược CĐS của doanh nghiệp cần được xây dựng phù hợp với chiến lược kinh doanh. Không chỉ vậy, các học giả khẳng định, chiến lược CĐS cần được xem xét dựa trên hoạt động tổ chức, xây dựng và sử dụng các tài nguyên kỹ thuật số để tạo ra các giá trị mới cho doanh nghiệp. Việc áp dụng các chiến lược CĐS có thể tạo ra triển vọng về một mô hình kinh doanh kỹ thuật số mới, phù hợp với đặc điểm riêng của công ty, là tiền đề cho những thay đổi nhanh chóng để doanh nghiệp hội nhập toàn diện vào thị trường trong nước và quốc tế (Chanias và cộng sự, 2019; Feng và cộng sự, 2019; Zhao và cộng sự, 2021).
Trong môi trường năng động, chiến lược CĐS đóng vai trò như một chỉ dẫn đối với doanh nghiệp (Devaraj và Kohli, 2003), là một kế hoạch chi tiết cho các hoạt động trong tương lai (Matt và cộng sự, 2015) để doanh nghiệp hướng tới chuyển đổi toàn diện. Sự chuyển đổi kỹ thuật số sẽ giúp các nhà quản lý tích hợp, sử dụng công nghệ kỹ thuật để thực hiện hiệu quả và nhanh chóng các hoạt động của doanh nghiệp. Dựa trên quá trình CĐS và hoạt động kinh doanh, Chanias và cộng sự (2019) lập luận rằng, chiến lược CĐS là kết quả của một quá trình năng động, thể hiện sự thành công trong kinh doanh và hiệu quả trong quá trình ra quyết định của nhà quản lý. Từ đó, tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng chiến lược tại những thời điểm nhất định sẽ có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Các mô hình lý thuyết liên quan
Mô hình chấp chấp nhận công nghệ (TAM - Technology Acceptance Model)
TAM do Davis (1989) đề xuất được đánh giá là một mô hình được mở rộng từ lý thuyết TRA, trở thành mô hình được áp dụng rộng rãi về sự chấp nhập sử dụng công nghệ của người tiêu dùng trong nghiên cứu hành vi (Vankatesh, 2000). Sự mở rộng này thể hiện ở việc thay thế 2 tác nhân đến thái độ hướng đến hành vi tiêu dùng của khách hàng bằng Lợi ích được cảm nhận và Sự dễ sử dụng được cảm nhận.
Mô hình kết hợp TAM và TPB (C-TAM-TPB)
Kế thừa các nghiên cứu trước đó, nhóm nghiên cứu của Taylor và Todd (1995) đã bổ sung các nhân tố cho mô hình TAM kết hợp với thuyết hành vi dự định TPB nhằm cung cấp một mô hình thích hợp hơn cho việc sử dụng sản phẩm liên quan đến công nghệ thông tin, bao gồm cả những người tiêu dùng đã có và chưa có kinh nghiệm sử dụng công nghệ.
Có thể thấy, trong mô hình C-TAM-TPB, các nhân tố chính có tác động đến dự định hành vi (ý định sử dụng), đó là: (1) Thái độ; (2) Chuẩn chủ quan; (3) Nhận thức kiểm soát hành vi. Trong đó, biến “Thái độ” chịu ảnh hưởng của 2 biến “Lợi ích cảm nhận”, “Sự dễ sử dụng cảm nhận”. Biến “Lợi ích lợi cảm nhận” cũng có tác động đến “Dự định hành vi”.
Mô hình chấp nhận và sử dụng công nghệ (UTAUT - Unified Theory of Acceptance and Use of Technology)
Kế thừa mô hình TRA, TPB, TAM và C-TAM-TPB, nghiên cứu của Venkatesh và cộng sự (2003) đã giữ lại nhân tố Dự định hành vi làm nhân tố tác động mạnh nhất đến Hành vi sử dụng của người tiêu dùng và phát triển thành mô hình UTAUT. Theo đó, nhân tố dự định hành vi được quyết định bởi các nhân tố bao gồm: Hiệu quả mong đợi, Nỗ lực mong đợi, Ảnh hưởng của xã hội và Các điều kiện thuận tiện. Đồng thời, nghiên cứu cũng đưa ra các nhân tố trung gian có tác động gián tiếp đến dự định hành vi thông qua các nhân tố chính, bao gồm: Giới tính, Độ tuổi, Kinh nghiệm và Tự nguyện sử dụng. Nhìn chung, UTAUT trở thành mô hình có thể khắc phục nhược điểm đáng kể này của TAM.
Lý thuyết nguồn lực của Barney (1995)
Đây là lý thuyết chính cho nghiên cứu về mức độ tác động của CĐS đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Theo lý thuyết Nguồn lực, thì nguồn lực của doanh nghiệp sản xuất công nghiệp gồm “tài sản vô hình và hữu hình” (Barney và Arikan, 2005). Tài sản vô hình đối với thực hành CĐS là các phần mềm số hoá trong toàn doanh nghiệp, tài sản hữu hình là máy móc thiết bị liên quan đến cơ sở hạ tầng CĐS và hệ thống vận hành của dây chuyền sản xuất. Nếu doanh nghiệp quản trị tốt nguồn lực này sẽ tạo ra sự khác biệt trong môi trường kinh doanh đầy cạnh tranh, nguồn lực mạnh sẽ giúp cho doanh nghiệp đạt được lợi thế bền vững. Việc thực hành CĐS trong doanh nghiệp sản xuất công nghiệp được chúng tôi kỳ vọng rằng đây là nguồn lực đặc biệt mà doanh nghiệp có thể tạo ra tính hiếm và khó bắt chước từ đối thủ cạnh tranh. Vì các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp trong cùng một ngành có thể khác nhau về kết quả bởi họ sử dụng các nguồn lực khác nhau và các nguồn lực này không đồng nhất (Chwiłkowska-Kubala và cộng sự, 2023).
Lý thuyết Chi phí giao dịch của Foss (1996)
Theo Lý thuyết Chi phí giao dịch, thì mục đích ứng dụng công nghệ số giúp doanh nghiệp giảm chi phí giao dịch. Cụ thể là, việc sử dụng công nghệ số có thể giảm đi các chi phí giao dịch bởi việc tối ưu hóa quy trình kinh doanh và tăng cường kết nối với đối tác qua các nền tảng số hóa. Ngoài ra, CĐS cũng có thể giúp giảm các chi phí nội bộ bằng cách tối ưu hóa quản lý thông tin và tự động hóa các quy trình làm việc (Choudhury và Sabherwal, 2003). Tuy nhiên, cũng có thể xuất hiện các chi phí mới liên quan đến việc triển khai và quản lý công nghệ số. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải đánh giá kỹ lưỡng cân nhắc giữa các lợi ích và chi phí của việc CĐS (Bharadwaj và cộng sự, 2013).
Tổng quan nghiên cứu
Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã đánh giá tác động của chiến lược CĐS đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Theo đó, các công trình nghiên cứu của Chen và Xu (2023), Guo và Xu (2021) cho rằng, CĐS mang lại hiệu quả đáng kể trong quá trình kinh doanh. CĐS có thể giúp giảm chi phí hoạt động phát sinh từ sự bất cân xứng thông tin trong các giao dịch bên ngoài. Nghiên cứu của Peng và Tao (2022), Zhang và cộng sự (2022) cũng đã chỉ ra mối quan hệ cùng chiều của CĐS và hiệu quả hoạt động. Mọi doanh nghiệp áp dụng CĐS đều kỳ vọng sẽ nâng cao khả năng hoạt động và cải tiến quy trình. Nhờ vào việc ứng dụng nền tảng số, thông tin được truyền tải hiệu quả trong tổ chức, giúp nâng cao hiệu quả giao tiếp giữa các bộ phận và quy trình kinh doanh, loại bỏ những công đoạn thừa hoặc không tạo ra giá trị cho khách hàng như nhận định của Mikalef và cộng sự (2020). Ngoài ra, ứng dụng công nghệ số đã thúc đẩy doanh nghiệp nhận diện được những rủi ro, cơ hội và tạo ra giá trị giúp doanh nghiệp thích nghi với những thay đổi của môi trường một cách hiệu quả nhất, như nhận định của Li (2020) và Liu và cộng sự (2011).
Tại Việt Nam, thông qua kết quả khảo sát với 100 doanh nghiệp Việt Nam ở khắp các lĩnh vực, Nguyễn Thị Thảo Nhi và cộng sự (2023) đã tiến hành một nghiên cứu nhằm nghiên cứu tác động của CĐS tới hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh mới. Nghiên cứu tập trung vào phân tích thực trạng tác động của CĐS tới hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam, từ đó xây dựng mô hình hồi quy hỗn hợp để đánh giá tác động của CĐS tới doanh thu thuần của doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu cho thấy, CĐS có tác động tích cực đáng kể đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Với dữ liệu được thu thập từ 2 nguồn gồm báo cáo tài chính được kiểm toán và khảo sát mức độ CĐS thực tế tại các doanh nghiệp tư nhân có niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán giai đoạn 2018-2022, Phan Thị Hằng Nga và cộng sự (2023) đã tiến hành nghiên cứu nhằm phân tích tác động của CĐS đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam. Đo lường hiệu quả kinh doanh thông qua chỉ tiêu ROE, đo lường CĐS thông qua 7 thành phần (Chiến lượng công ty, Trải nghiệm khách hàng, Chuỗi cung ứng, Nghiệp vụ quản lý, Hệ thống quản trị dữ liệu, Quản lý rủi ro, Con người và tổ chức). Dựa trên kết quả khảo sát, tổng hợp mức độ CĐS của các doanh nghiệp từ mức 0 đến mức 5. Kết quả ước lượng mô hình FGLS cho thấy, CĐS tác động âm đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp và mức độ tác động của từng thành phần CĐS đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp tư nhân cũng khác nhau. Cụ thể là: biến Chuỗi cung ứng, Nghiệp vụ quản lý, Quản lý rủi ro là 3 biến có tác động ngược chiều đến ROE, trong đó: quản lý rủi ro có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến ROE, tiếp đến là nghiệp vụ quản lý và cuối cùng là chuỗi cung ứng. Các biến còn lại như: Chiến lược, Trải nghiệm khách hàng, Hệ thống quản trị dữ liệu, Con người chưa tìm thấy mối quan hệ đến ROE. Kết quả này có thể thấy rằng, CĐS hiện nay đang là xu thế tất yếu. Tuy nhiên, bước vào giai đoạn đầu của CĐS (doanh nghiệp mới thực hiện CĐS mạnh trong thời gian 3 năm (2020-2022) thì hiệu quả chưa thể nhìn thấy rõ ràng trong ngắn hạn và kết quả phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Mặt khác, hồi quy các thành phần của CĐS cho thấy, sự tác động của CĐS đến hiệu quả kin doanh chưa rõ ràng. Từ kết quả nghiên cứu, nhóm đề xuất các hàm ý để CĐS mang lại hiệu quả kinh doanh cho các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam.
Nguyễn Thị Phương Dung và cộng sự (2024) đã tiến hành nghiên cứu nhằm xem xét tác động của CĐS đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp sản xuất công nghiệp tại Cần Thơ. Dữ liệu được thu thập thông qua khảo sát 198 doanh nghiệp sản xuất công nghiệp tại Cần Thơ trong giai đoạn 2021–2023. Phương pháp ước lượng bình phương bé nhất (GLS) được sử dụng để kiểm định mối quan hệ của các nhân tố trong mô hình lý thuyết. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra rằng, CĐS (được đo lường thông qua biến Đầu tư vào hạ tầng và phần mềm công nghệ) làm tăng hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp một cách rõ rệt. Ngoài ra, nghiên cứu cũng nhấn mạnh về vai trò của các yếu tố khác như quy mô, thời gian hoạt động góp phần làm tăng hiệu quả hoạt động. Tuy nhiên, biến đòn bẩy tài chính làm giảm hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp sản xuất. Đồng thời, nghiên cứu còn đề xuất hàm ý giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu quả trong nền kinh tế số.
ĐỀ XUẤT MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
Dựa vào Lý thuyết nguồn lực của Barney (1995) và Lý thuyết chi phí giao dịch của Foss (1996) cũng như tổng quan nghiên cứu, tác giả xây dựng mô hình nghiên cứu đánh giá tác động của CĐS đến Hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp ngành dịch vụ nhà hàng (Hình), trong đó:
- Biến phụ thuộc là Hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp ngành dịch vụ nhà hàng (được đo lường thông qua: Mức sinh lời và Tốc độ tăng trưởng).
- Biến độc lập là Chiến lược CĐS được đo lường thông qua: Chiến lược doanh nghiệp, Trải nghiệm khách hàng, Chuỗi cung ứng, Hệ thống quản trị dữ liệu, Quản lý rủi ro, Con người và tổ chức, Đầu tư vào hạ tầng và phần mềm công nghệ.
Hình: Mô hình nghiên cứu đề xuất
![]() |
Nguồn: Tác giả đề xuất |
KẾT LUẬN
Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp có khả năng tận dụng nền tảng số để thực hiện CĐS, từ đó chuyển đổi mô hình kinh doanh theo hướng hiệu quả hơn. Việc xây dựng mô hình nghiên cứu đánh giá tác động của CĐS đến hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp ngành dịch vụ nhà hàng giúp cho các doanh nghiệp có thể đánh giá được mức độ quan trọng của chiến lược CĐS đối với hiệu quả kinh doanh, thông qua mức sinh lời và tốc độ tăng trưởng. Mô hình nghiên cứu do tác giả đề xuất là cơ hội tốt cho các nghiên cứu tiếp theo, nhằm đảm bảo tính phù hợp và khả năng áp dụng của nghiên cứu vào thực tiễn./.
Tài liệu tham khảo
1. Ajzen, I. (1991), The Theory of Planned Behavior, Organizational Behavior and Human Decision Processes, 50, 179-211, http://dx.doi.org/10.1016/0749-5978(91)90020-T.
2. Andriole, S. J. (2017), Five myths about digital transformation, MIT Sloan Management Review, 58(3), 20-22.
3. Besson, P., Rowe, F. (2012), Strategizing information systems-enabled organizational transformation: A transdisciplinary review and new directions, The Journal of Strategic Information Systems, 21(2), 103-124.
4. Bharadwaj, A., El Sawy, O. A., Pavlou, P. A., Venkatraman, N. (2013), Digital business strategy: Toward a next generation of insights, MIS Quarterly, 37(2), 471–482.
5. Barney, J. B. (1995), Looking inside for competitive advantage, Academy of Management Perspectives, 9(4), 49-61.
6. Barney, J. B., Arikan, A. M. (2005), The resource‐based view: origins and implications, in book The Blackwell handbook of strategic management, 123-182.
7. Chwiłkowska-Kubala, A., Cyfert, S., Malewska, K., Mierzejewska, K., Szumowski, W. (2023), The impact of resources on digital transformation in energy sector companies, The role of readiness for digital transformation, Technology in Society, 74, 102315.
8. Choudhury, V., Sabherwal, R. (2003), Portfolios of control in outsourced software development projects, Information systems research, 14(3), 291-314.
9. Chen, Y., Xu, J. (2023), Digital transformation and firm cost stickiness: Evidence from China, Finance Research Letters, 52, 103510.
10. Devaraj, S., Kohli, R. (2003), Performance Impacts of Information Technology: Is Actual Usage the Missing Link?, Management Science, 49(3), 273–289, https://doi.org/10.1287/mnsc.49.3.273.12736.
11. Davis, F. (1989), Perceived Usefulness, Perceived Ease of Use, and User Acceptance of Information Technology, MIS Quarterly, 13, 319-340.
12. Foss, K. (1996), Transaction costs and technological development: the case of the Danish fruit and vegetable industry, Research Policy, 25(4), 531-547.
13. Guo, L., Xu, L. (2021), The effects of digital transformation on firm performance: Evidence from China’s manufacturing sector, Sustainability, 13(22), 12844.
14. Fishbein, M., Ajzen, I. (1975), Belief, Attitude, Intention, and Behavior: An Introduction to Theory and Research, Reading, MA: Addison-Wesley.
15. Horlacher, A., Klarner, P., and Hess, T. (2016), Crossing boundaries: Organization design parameters surrounding CDOs and their digital transformation activities, Americas Conference of Information Systems, San Diego, CA.
16. Li, F. (2020), The digital transformation of business models in the creative industries: A holistic framework and emerging trends, Technovation, 92, 102012.
17. Liu, J., Yuan, C., Hafeez, M., Yuan, Q. (2018), The relationship between environment and logistics performance: Evidence from Asian countries, Journal of cleaner production, 204, 282-291.
18. Mikalef, P., Krogstie, J., Pappas, I. O., Pavlou, P. (2020), Exploring the relationship between big data analytics capability and competitive performance: The mediating roles of dynamic and operational capabilities, Information & Management, 57(2), 103169.
19. Nguyễn Thị Thảo Nhi, Nguyễn Thị Mai Phương, Nguyễn Thị Quỳnh, Trần Thị Thanh, Phan Thế Công (2023), Tác động của CĐS tới hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh mới, Tạp chí Nghiên cứu công nghiệp và thương mại, số 82, tháng 2/2023.
20. Nguyễn Thị Phương Dung, Nguyễn Thị Thanh Tâm, Nguyễn Lê Hoa Hạ, Nguyễn Minh Triết (2024), Tác động của CĐS đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp sản xuất tại Cần Thơ, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số đặc biệt, tháng 12/2024.
21. Peng, Y., Tao, C. (2022), Can digital transformation promote enterprise performance? From the perspective of public policy and innovation, Journal of Innovation & Knowledge, 7(3), 1-8.
22. Piccinini, E., Hanelt, A., Gregory, R., and Kolbe, L. (2015b), Transforming industrial business: The impact of digital transformation on automotive organizations, International Conference of Information Systems, Forth Worth, TX.
23. Phan Thị Hằng Nga, Trương Huỳnh Mỹ Duyên, Hồ Thị Hạnh Nguyền, Vũ Hà Ngọc Huyền, Võ Triều Vi, Trần Ngọc Huân (2023), Tác động của CĐS đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing, 14(2), 13-24.
24. Taylor, S., and Todd, P. (1995), Decomposition and Crossover Effects in the Theory of Planned Behavior: A Study of Consumer Adoption Intentions, International Journal of Research in Marketing, 12, 137-155.
25. Venkatesh, V., Morris, M. G., Davis, G. B., Davis, F. D. (2003), User acceptance of information technology: Toward a unified view, MIS Quarterly, 27(3), 425-478.
26. Westerman, G., Calméjane, C., Bonnet, D., Ferraris, P., and McAfee, A. (2011), Digital transformation: A roadmap for billion-dollar organizations, MIT Center for Digital Business and Capgemini Consulting, 1-68.
27. Zhang, T., Shi, Z. Z., Shi, Y. R. Chen, N. J. (2022), Enterprise digital transformation and production efficiency: Mechanism analysis and empirical research, Economic research-Ekonomska istraživanja, 35(1), 2781-2792.
Ngày nhận bài: 02/12/2024; Ngày phản biện: 20/12/2024; Ngày duyệt đăng: 24/01/2025 |
Bình luận