Nâng cao năng lực của người lao động trong xu thế phát triển trí tuệ nhân tạo
TS. Trung tá Vương Thanh Tú
Giảng viên Khoa Kinh tế chính trị, Học viện Chính trị Công an nhân dân
Email: tuvt03@gmail.com
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang mang lại những thay đổi toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội. Trong đó, trí tuệ nhân tạo nổi lên như một yếu tố then chốt, không chỉ thúc đẩy năng suất lao động và tối ưu hóa quá trình sản xuất, mà còn đặt ra những thách thức lớn đối với chất lượng nguồn nhân lực. Việt Nam không nằm ngoài xu thế đó. Nghiên cứu này sẽ phân tích thực trạng nhân lực Việt Nam trước làn sóng trí tuệ nhân tạo, xác định các nhóm năng lực cốt lõi mà người lao động cần trang bị, từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực của người lao động, giúp họ thích ứng và phát triển bền vững trong kỷ nguyên trí tuệ nhân tạo.
Từ khóa: Năng lực lao động, trí tuệ nhân tạo, AI, chất lượng nguồn nhân lực.
The Fourth Industrial Revolution has been driving comprehensive changes across most sectors of economic and social life. Among its key driving forces, artificial intelligence (AI) stands out as a key factor that not only enhances labor productivity and optimizes production processes but also poses significant challenges to the quality of human resources. Vietnam is not immune to this trend. This study aims to analyze the current status of Vietnam’s workforce amid the rise of AI, identify the core competency groups that workers need to acquire, and propose solutions to improve labor capacity, thereby enabling sustainable adaptation and development in the age of artificial intelligence.
Keywords: Workforce competency, artificial intelligence, AI, human resource quality
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong kỷ nguyên số hóa, trí tuệ nhân tạo (AI) đã trở thành nhân tố then chốt định hình lại cách thức sản xuất, quản lý và vận hành của hầu hết các ngành nghề trên toàn thế giới. Sự xuất hiện và phát triển nhanh chóng của AI không chỉ mang đến những cơ hội lớn để nâng cao hiệu suất, tối ưu hóa nguồn lực mà còn đặt ra những yêu cầu mới khắt khe hơn đối với chất lượng nguồn nhân lực.
Tại Việt Nam, mặc dù sở hữu lực lượng lao động đông đảo và tiềm năng, nhưng trước làn sóng công nghệ này, nguồn nhân lực vẫn bộc lộ những bất cập rõ rệt. Sự thiếu hụt kỹ năng số, tư duy sáng tạo và các năng lực làm chủ công nghệ tiên tiến khiến cho quá trình thích ứng với AI diễn ra chậm hơn so với các quốc gia phát triển. Trong khi nhu cầu nhân lực số ngày càng tăng thì tỷ lệ lao động được đào tạo bài bản và trang bị các kỹ năng cần thiết vẫn ở mức thấp, dẫn đến nguy cơ tụt hậu và mất lợi thế trong quá trình hội nhập. Chính vì vậy, việc nâng cao năng lực và chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam để sẵn sàng đáp ứng những thay đổi mạnh mẽ của thời kỳ AI không chỉ là bài toán cấp bách mà còn là điều kiện tiên quyết để Việt Nam bứt phá, phát triển bền vững và hội nhập sâu rộng vào chuỗi giá trị toàn cầu.
CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của chuyển đổi số và đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế số và xã hội số, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực.
Ngày 26/01/2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 127/QĐ-TTg ban hành Chiến lược quốc gia về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng AI đến năm 2030, trong đó, xác định nhân lực số là một trong những yếu tố then chốt để đảm bảo chuyển đổi số hiệu quả và bền vững. Chiến lược đặc biệt nhấn mạnh mục tiêu đến năm 2030, thu hút, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực đầu tư cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia.
Tiếp đó, ngày 31/3/2022 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 411/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 xác định phát triển nhân lực số là một trong ba trụ cột quan trọng để đạt được các mục tiêu đề ra. Nhân lực số, bao gồm đội ngũ chuyên gia, nhân lực công nghệ số và người dân được trang bị kỹ năng số, đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy sự phát triển của kinh tế số và xã hội số.
Ngày 24/5/2025, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1002/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển công nghệ cao giai đoạn 2025-2035 và định hướng tới năm 2045, trong đó, Việt Nam đặt mục tiêu mỗi năm đào tạo 8.000 lao động chuyên sâu về AI và ít nhất 20% người có bằng kỹ sư, thạc sỹ, tiến sỹ.
Những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển nguồn nhân lực là tiền đề quan trọng, mang tính chiến lược, tạo cơ sở vững chắc để Việt Nam từng bước xây dựng đội ngũ nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của quá trình chuyển đổi số và hội nhập quốc tế trong xu thế AI.
THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CỦA NGUỒN NHÂN LỰC VIỆT NAM TRONG XU THẾ PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ NHÂN TẠO
Việt Nam đã có những tiến bộ trong việc nâng cao chỉ số sẵn sàng cho AI, vượt qua mức trung bình toàn cầu. Tuy nhiên, trong bối cảnh phát triển AI, nguồn nhân lực Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức.
Thứ nhất, về nhân lực qua đào tạo và kỹ năng số. Chất lượng nhân lực qua đào tạo và kỹ năng số của Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế. Trong bối cảnh quá trình chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ, yêu cầu đối với kỹ năng của người lao động ngày càng cao, tuy nhiên, nguồn nhân lực số lại chưa đáp ứng kịp thời. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là do Việt Nam còn thiếu các khung năng lực chuẩn hóa và các kỹ năng thiết yếu như ngoại ngữ, tư duy phản biện và khả năng giải quyết vấn đề. Theo thống kê, Việt Nam hiện chỉ có khoảng 530.000 lao động số, trong khi nhu cầu đến năm 2025 ước tính cần tới 1 triệu người. Tỷ lệ nhân lực số mới chỉ đạt 1,1% tổng lực lượng lao động, thấp hơn đáng kể so với các quốc gia phát triển như: Hàn Quốc, Mỹ, Ấn Độ.
Thứ hai, về kỹ năng ngoại ngữ và hội nhập. Kỹ năng ngoại ngữ đóng vai trò quan trọng trong việc hội nhập của nguồn nhân lực, đặc biệt, trong bối cảnh toàn cầu hóa và nền kinh tế mở. Khả năng sử dụng ngoại ngữ giúp người lao động tiếp cận thông tin, công nghệ, kiến thức mới, mở rộng cơ hội nghề nghiệp và tham gia hiệu quả vào thị trường lao động quốc tế. Tuy nhiên, khả năng ngoại ngữ của nhân lực Việt Nam, đặc biệt là tiếng Anh còn nhiều hạn chế so với yêu cầu của thời đại công nghệ, đặc biệt là trong việc tiếp cận và sử dụng tài liệu, phần mềm và công cụ AI. Trong ngành Công nghệ thông tin, tiếng Anh là rất cần thiết và gần như bắt buộc đối với lao động, bởi hầu hết các ngôn ngữ lập trình, các công nghệ, thuật toán mới hoàn toàn bằng tiếng Anh, nếu yếu kỹ năng dịch thuật thì sẽ khó mở mang được kiến thức mới và tiến xa trong ngành nghề của mình. Bên cạnh đó, phần lớn các nhà tuyển dụng luôn mong đợi các lập trình viên ít nhất phải có trình độ ngoại ngữ thành thạo ở mức cơ bản trong giao tiếp và giới hạn trong vai trò kỹ thuật. Tuy nhiên, theo báo cáo thị trường Công nghệ thông tin Việt Nam 2023, trình độ tay nghề IT Việt Nam hiện xếp cuối khu vực và đứng thứ 47/60 toàn cầu, chỉ 5% lực lượng lao động ngành này thành thạo tiếng Anh, lao động tay nghề cao chiếm hơn 11%, gần như không thay đổi so với 3 năm trước. Tỷ lệ này khá thấp so với các nước không nói tiếng Anh khác trong khu vực như: Indonesia (10%), Malaysia (21%), Thái Lan (27%). Ngoài tiếng Anh, một số ngoại ngữ khác như: tiếng Trung, tiếng Nhật, tiếng Hàn… cũng được đặt ra với người tuyển dụng, song khả năng ngoại ngữ của nhân lực Việt Nam vẫn còn rất hạn chế.
Thứ ba, về năng lực sáng tạo, tự học và thích ứng chậm. Theo khảo sát của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) cho thấy, hơn 40% người lao động Việt Nam chưa có thói quen học tập liên tục, đặc biệt là học tập chủ động thông qua các hình thức trực tuyến như khóa học online, hội thảo và tự nghiên cứu. Điều này có nghĩa là một tỷ lệ đáng kể người lao động Việt Nam chưa thực sự chủ động tìm kiếm và tiếp thu kiến thức, kỹ năng mới để đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động đang thay đổi nhanh chóng, đặc biệt là trong bối cảnh chuyển đổi số và nền kinh tế số. Trong khi đó, AI và các công nghệ 4.0 phát triển với tốc độ chóng mặt, đặt ra yêu cầu nhân lực phải không ngừng cập nhật và nâng cấp kỹ năng. Điều này khiến không ít người lao động dễ rơi vào tình trạng “lạc nhịp” và không kịp thích nghi với những biến đổi của môi trường lao động số hóa.
Thứ tư, về kỹ năng mềm và tư duy logic. Theo một nghiên cứu về sự thiếu hụt các kỹ năng mềm khi đi làm ở người trẻ Việt Nam do tổ chức nghiên cứu và thay đổi xã hội vùng Love Frankie kết hợp với Công ty nghiên cứu Indochina Research Ltd thực hiện vào tháng 4/2024, 78% thanh niên được hỏi cho rằng, kỹ năng giao tiếp là quan trọng nhất, tiếp đó là sáng tạo (48%), làm việc nhóm (35%), quản lý thời gian (21%), khả năng tương tác với người khác (21%). Điều này phần nào cho thấy, chính thế hệ trẻ cũng đã nhận thức được tầm quan trọng của việc trau dồi kỹ năng mềm. Tuy nhiên, mỗi năm Việt Nam có khoảng 1,6 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động, trong đó có đến 83% sinh viên tốt nghiệp ra trường bị đánh giá là thiếu kỹ năng mềm. Điều này ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh và hiệu quả làm việc của người lao động Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế.
Thứ năm, hạ tầng đào tạo và chính sách nhân lực. Mặc dù Chính phủ đã ban hành các chính sách quan trọng về phát triển AI, song việc triển khai đào tạo nhân lực AI vẫn chưa đồng bộ và thường chậm so với nhu cầu thực tế. Theo đó, số lượng chuyên gia có trình độ cao trong lĩnh vực AI chưa đáp ứng đủ so với nhu cầu ngày càng tăng, trong khi việc đào tạo đội ngũ mới cần thời gian và nguồn lực đáng kể. Hạ tầng công nghệ tại nhiều trường vẫn chưa đáp ứng được tiêu chuẩn hiện đại của ngành AI, đặc biệt là các hệ thống máy tính hiệu năng cao, trung tâm dữ liệu lớn và phần mềm chuyên dụng. Bên cạnh đó, thị trường lao động cạnh tranh khốc liệt dẫn đến hiện tượng "chảy máu chất xám" khi các chuyên gia AI bị thu hút bởi các tập đoàn lớn trong và ngoài nước, gây khó khăn trong việc duy trì đội ngũ giảng viên chất lượng cao.
Ngoài ra, một số chương trình đào tạo AI vẫn tập trung nhiều vào lý thuyết mà chưa gắn kết chặt chẽ với nhu cầu thực tế của doanh nghiệp, khiến sinh viên thiếu kỹ năng ứng dụng thực tiễn sau khi tốt nghiệp. Chương trình đào tạo hiện tại cũng chưa đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của doanh nghiệp liên quan tới AI mặc dù đã thường xuyên cập nhật, điều chỉnh.
GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG BỐI CẢNH PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ NHÂN TẠO
Tại Chiến lược quốc gia về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng AI đến năm 2030 đặt mục tiêu: đưa AI trở thành một lĩnh vực quan trọng của Việt Nam, nằm trong nhóm 4 nước dẫn đầu trong khu vực ASEAN và nhóm 50 nước dẫn đầu trên thế giới về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng AI; xây dựng được 10 thương hiệu AI có uy tín trong khu vực; phát triển được 03 trung tâm quốc gia về lưu trữ dữ liệu lớn; hình thành được 03 trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia. Việt Nam là trung tâm đổi mới sáng tạo, phát triển các giải pháp và ứng dụng AI góp phần đẩy mạnh xã hội sáng tạo, chính phủ hiệu quả, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và thúc đẩy phát triển kinh tế tăng trưởng bền vững.
Để đạt được mục tiêu này, cần triển khai đồng bộ các giải pháp nâng cao năng lực, bảo đảm nguồn nhân lực có thể khai thác tối đa lợi ích từ AI. Một số giải pháp cụ thể như sau:
Một là, cần tăng cường đào tạo và bồi dưỡng kỹ năng số cùng kỹ năng mềm cho người lao động. Ngoài những kỹ năng chuyên môn truyền thống, người lao động hiện nay cần được trang bị kỹ năng sử dụng các công cụ công nghệ, AI, khai thác và xử lý thông tin số. Đồng thời, các kỹ năng mềm như: tư duy phản biện, sáng tạo, giao tiếp và hợp tác cũng cần được rèn luyện thường xuyên, giúp họ linh hoạt trước sự biến đổi không ngừng của môi trường làm việc.
Hai là, đổi mới hệ thống giáo dục, đào tạo nghề là nhiệm vụ trọng tâm. Các cơ sở đào tạo từ bậc trung học đến đại học cần xây dựng chương trình giảng dạy gắn liền với thực tiễn, tích hợp AI và các công nghệ số vào giáo trình. Các chương trình đào tạo nghề nên có nội dung thực hành, nâng cao kỹ năng làm việc trên các nền tảng số và tự động hóa. Song song với đào tạo chính quy, cần tổ chức các khóa học ngắn hạn và đào tạo lại thường xuyên để người lao động không bị tụt hậu trước tiến bộ công nghệ.
Ba là, chính sách khuyến khích học tập suốt đời cần được chú trọng. Nhà nước và doanh nghiệp cần xây dựng cơ chế hỗ trợ người lao động tham gia các khóa đào tạo bổ sung, nâng cao kỹ năng liên tục. Các quỹ phát triển nhân lực, chương trình bồi dưỡng nội bộ của doanh nghiệp và chính sách khuyến khích người lao động tự học sẽ giúp xây dựng một lực lượng lao động linh hoạt, sẵn sàng thích nghi với AI.
Bốn là, cần tạo môi trường làm việc khuyến khích đổi mới và ứng dụng AI. Doanh nghiệp cần đầu tư vào hạ tầng số, trang bị thiết bị, phần mềm và công cụ thông minh để nhân viên dễ dàng thao tác, khai thác. Bên cạnh đó, cần xây dựng văn hóa khuyến khích nhân viên thử nghiệm, chia sẻ kinh nghiệm và sáng kiến áp dụng AI, qua đó, không chỉ nâng cao năng suất mà còn phát triển tư duy cải tiến liên tục.
KẾT LUẬN
Kỷ nguyên AI mang đến cả cơ hội và thách thức cho nguồn nhân lực Việt Nam. Nếu biết nắm bắt thời cơ và không ngừng nâng cao năng lực, người lao động không chỉ biến AI thành công cụ phục vụ công việc, mà còn trở thành nhân tố sáng tạo, dẫn dắt quá trình phát triển. Để nâng cao năng lực người lao động trong thời kỳ AI bùng nổ, cần triển khai đồng bộ các giải pháp từ đào tạo, giáo dục, chính sách hỗ trợ đến cải thiện môi trường làm việc. Điều này không chỉ giúp người lao động bắt kịp xu hướng mà còn tạo tiền đề vững chắc để nền kinh tế hội nhập sâu rộng và phát triển bền vững trong kỷ nguyên số.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hà Trang (2025). Lao động trẻ trong kỷ nguyên AI: Kỹ năng mềm là 'chìa khóa' thành công, https://giaoducthoidai.vn/lao-dong-tre-trong-ky-nguyen-ai-ky-nang-mem-la-chia-khoa-thanh-cong-post714956.html.
2. Lê Lâm (2024). Trí tuệ nhân tạo ảnh hưởng đến lực lượng lao động thế nào trong tương lai? https://nhandan.vn/tri-tue-nhan-tao-anh-huong-den-luc-luong-lao-dong-the-nao-trong-tuong-lai-post811636.html.
3. Thủ tướng Chính phủ (2021). Quyết định số 127/QĐ-TTg ngày 26/01/2021 ban hành Chiến lược quốc gia về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng Trí tuệ nhân tạo đến năm 2030.
4. Thủ tướng Chính phủ (2022). Quyết định số 411/QĐ-TTg ngày 31/3/2022 phê duyệt Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
5. Thủ tướng Chính phủ (2025). Quyết định số 1002/QĐ-TTg ngày 24/5/2025 phê duyệt Đề án đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển công nghệ cao giai đoạn 2025 - 2035 và định hướng tới năm 2045.
6. TopDev (2023). Báo cáo thị trường công nghệ thông tin Việt Nam.
|
Ngày nhận bài: 25/05/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 6/6/2025: Ngày duyệt đăng: 12/6/2025 |

Bình luận