ThS. Uông Thị Ngọc Lan – Trường Đại học Thành Đông

Email: lanunt@thanhdong.edu.vn

Tóm tắt

Từ khi tiến hành đổi mới đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng tự hào trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Đặc biệt, sự thay đổi về quan điểm và chính sách kinh tế đã góp phần thúc đẩy thị trường hàng hóa, dịch vụ phát triển mạnh mẽ và mang lại nhiều thành quả tích cực. Trong số đó, dịch vụ logistics đang từng bước chuyển mình, ngày càng trở nên đa dạng và phong phú, đáp ứng nhu cầu phát triển của kinh tế Việt Nam và thế giới. Gắn liền với sự thành công của sản xuất và thương mại, logistics là điều kiện tiên quyết cho dòng lưu thông hàng hóa nội địa cũng như quốc tế. Trong bối cảnh dịch vụ logistics Việt Nam đang phát triển, nhưng cũng gặp phải không ít khó khăn, tác giả đi nghiên cứu thực trạng phát triển logistics bền vững ở Việt Nam từ kinh nghiệm của các nước: Singapore, Thái Lan, Nhật Bản và Trung Quốc, từ đó đưa ra một số giải pháp cơ bản.

Từ khóa: Kinh nghiệm thế giới; Logistics; Phát triển bền vững; Việt Nam.

Abstract: Since the renewal of the country and international economic integration, Vietnam has achieved proud achievements in all fields of socio-economic life. In particular, the change in economic views and policies has contributed to promoting the strong development of the goods and services market and brought many positive results. Among them, logistics services are gradually transforming, becoming more and more diverse and rich, meeting the development needs of the economy of Vietnam and the world. Associated with the success of production and trade, logistics is a prerequisite for the flow of goods domestically as well as internationally. In the context that Vietnam’s logistics services are developing, but they also face many difficulties. Within the scope of this article, the author goes to study the current situation of sustainable logistics development in Vietnam from the experiences of countries: Singapore, Thailand, Japan and China, thereby offering some basic solutions.

Keywords: International experience; Logistics; Sustainable Development; Vietnam.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Logistics Việt Nam đang ở ngưỡng cửa phát triển theo tiến trình của quốc gia với nền kinh tế thế giới. Tại Việt Nam, theo số liệu thống kê, dịch vụ Logistics chiếm khoảng từ 15- 20% GDP. Như vậy, có thể thấy, hoạt động Logistics mang lại giá trị to lớn cho nền kinh tế của quốc gia. Không những thế dịch vụ logistics còn tạo cơ hội cho Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, tạo cơ hội cho Việt Nam tham gia vào thị trường thế giới, từ đó nắm bắt được các cơ hội cũng như học hỏi các kinh nghiệm của các công ty, doanh nghiệp nổi tiếng thế giới, sau đó vận dụng hợp lý vào hoạt động kinh doanh của Việt Nam, góp phần phát triển nền kinh tế. Nâng cao hiệu quả hoạt động dịch vụ logistics sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của đất nước.

TỔNG QUAN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ LOGISTICS

Phát triển bền vững (Sustainable development) đang được xem là động lực mới cho tăng trưởng kinh tế của các quốc gia trên thế giới. Phát triển bền vững tạo ra các cơ hội mới cho doanh nghiệp, dư địa cho những đổi mới về công nghệ và hình thành những ngành, sản phẩm mới mà những nước đang phát triển như Việt Nam sẽ có lợi thế cao nếu kịp thời nắm bắt. Quan trọng hơn, phát triển bền vững giúp giải quyết tốt các vấn đề thời đại như biến đổi khí hậu, tiêu thụ năng lượng và tiêu dùng tài nguyên quá mức của các ngành sản xuất của các quốc gia toàn cầu ngày nay.

Logistics là thuật ngữ chuyên ngành, có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, theo đó trong tiếng Việt từ tương đương gần nhất là “hậu cần”. Logistic có khái niệm bắt nguồn từ nhu cầu quân sự trong việc cung cấp cho quân đội trong quá trình di chuyển của các đoàn quân từ căn cứ ra tiền tuyến. Trong thời Hy Lạp cổ đại, Đế chế Roman và Byzantine đã có những sỹ quan đảm nhận vai trò “logistikas”, là người chịu trách nhiệm đến các vấn đề về tài chính cũng như cung cấp phân phối.

Trong nền kinh tế thị trường, logistics là sự kết nối và hợp tác nên ngày càng đóng vai trò quan trọng, là yếu tố không thể thiếu trong sản xuất, phân phối và lưu thông hàng hóa, đặc biệt là trong việc tạo môi trường kinh doanh thuận lợi để nâng cao hiệu quả của các hoạt động sản xuất và kinh doanh ở mọi lĩnh vực. Ở tầm vĩ mô, logistics giúp tối ưu hóa quá trình phân phối, vận chuyển, dự trữ các nguồn lực, giúp các quốc gia phát triển bền vững. Ở tầm vi mô, logistics đóng vai trò to lớn trong việc hóa giải bài toán đầu vào và đầu ra của các doanh nghiệp một cách có hiệu quả, thông qua việc tối ưu hóa các hoạt động trong quá trình sản xuất - kinh doanh, từ đó giúp giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN LOGISTICS BỀN VỮNG TRÊN THẾ GIỚI

Kinh nghiệm của Singapore

Singapore có một vị trí địa lý thuận lợi, nằm trong eo biển Malaca, trấn giữ con đường hàng hải huyết mạch từ Đông sang Tây, nối liền Thái Bình Dương. Singapore đặt mục tiêu, chiến lược là phát triển Singapore trở thành trung tâm logistics tích hợp hàng đầu thế giới. Hiện nay, không chỉ các doanh nghiệp logistics hàng đầu thế giới lựa chọn Singapore là cửa ngõ vào thị trường châu Á mà còn được các doanh nghiệp logistics châu Á chọn là cửa ngõ đi ra thị trường thế giới. Các chính sách chủ yếu phát triển dịch vụ logistics tại Singapore gồm có:

Thứ nhất, mô hình quản lý chính quyền cảng: Trong quản lý cảng biển và các dịch vụ cảng biển hiện nay, Singapore áp dụng mô hình quản lý theo chủ cảng. Với mô hình quản lý này, cơ quan quản lý cảng sở hữu và bảo trì các công trình cảng cũng như khai thác bến. Nói cách khác, cơ quan quản lý cảng là người sở hữu và bảo trì các công trình cảng nhưng cho khu vực tư nhân thuê để thực hiện các dịch vụ tại cảng như xếp dỡ, giao nhận, lưu kho hàng hóa.

Thứ hai, phát triển khu tự do thương mại Free Trade Zone (FTZ): Phát triển FTZ là chiến lược chủ đạo. Từ khi mới ra đời và hoạt động, cảng Singapore phát triển theo mục tiêu là cảng tự do thương mại freeport, 99% hàng nhập khẩu vào Singapore được miễn thuế. Khu vực tự do thương mại FTZ đầu tiên được mở vào năm 1969 tại bến Jurong. Hiện nay 6/7 khu vực FTZ đều nằm ở 6 bến thuộc cảng Singapore.

Thứ ba, Chính phủ đầu tư vào các công trình kết cấu hạ tầng logistics quan trọng, có quy mô lớn, hiện đại, hệ thống đường cao tốc, trung tâm logistics hàng không, trạm không vận hàng tươi sống, trung tâm hàng tiêu dùng, trung tâm kinh doanh và vận chuyển các tác phẩm nghệ thuật…

Kinh nghiệm của Thái Lan

Nhờ vào lợi thế vị trí địa lý chiến lược, Thái Lan đặt mục tiêu phát triển thành điểm trung chuyển logistics trong khu vực. Để đạt mục tiêu đó, các chính sách phát triển dịch vụ logistics của Thái Lan bao gồm:

Thứ nhất, xây dựng ngành dịch vụ logistics chất lượng cao và giảm thiểu tối đa chi phí logistics. Thái Lan đã xây dựng kế hoạch cắt giảm chi phí chi tiết và cụ thể cho từng hoạt động logistics. Với mục tiêu cắt giảm chi phí logistics, Thái Lan đã tiến hành xây dựng hệ thống vận tải thống nhất và liên thông giữa các tỉnh, thành phố; tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics trong nước hợp tác và học hỏi kinh nghiệm của các công ty cung cấp logistics ngoài nước; cũng như phát triển hệ thống E-logistics giảm thiểu chi phí chứng từ thương mại.

Thứ hai, đẩy mạnh đầu tư về công nghệ thông tin trong quản lý. Thái Lan đã xây dựng hệ thống mạng lưới E-logistics, nâng cao hiệu quả trong hoạt động dịch vụ logistics. Nền tảng E-logistics liên kết các doanh nghiệp sản xuất; các nhà cung cấp dịch vụ logistics; các công ty giao nhận vận tải; các trạm, ga, sân bay, bến cảng; các ngân hàng và thể chế tài chính và các cơ quan trực thuộc chính phủ, triển khai các giao dịch liên quan đến hải quan điện tử (e-custom), đăng ký giấy phép trực tuyến (e-license), cảng điện tử (e-port).

Kinh nghiệm của Nhật Bản

Ngay từ những năm 1960 Nhật Bản đã xây dựng và phát triển hệ thống kho vận Logistics xung quanh các thành phố lớn và gần các điểm kết nối giao thông vận tải. Các bãi kho vận logistics Nhật Bản đều tập trung vào việc hợp lý hóa các dịch vụ logistics thành phố. Đây là điểm khác biệt so với logistics của Đức và các nước khác. Logistics Nhật Bản đóng góp rất lớn vào hoạt động phân phối sản phẩm cho các ngành công nghiệp phát triển tại các thành phố lớn. Chính phủ Nhật Bản giữ vai trò quan trọng trong việc xây dựng các kho vận logistics và coi việc phát triển ngành logistics hiện đại là chiến lược quan trọng để nâng cao vị thế quyền lực quốc gia. Nhật Bản rất chú trọng đến hiệu quả và hoạt động kiểm soát vĩ mô ngành logistics. Có hai lĩnh vực được chính phủ đặc biệt chú ý, là kho vận logistics và cơ sở hạ tầng giao thông vận tải.

Số lượng các công ty logistics thuê ngoài (outsourcing logistics) ở Nhật Bản ngày càng tăng do hoạt động quản lý chuỗi cung cấp toàn cầu ngày càng trở nên phức tạp và cần thiết cho tính cạnh tranh quốc tế của Nhật Bản. Quản lý chuỗi cung cấp (SCM - Supply Chain Management) là phương thức tối ưu hóa những yêu cầu của khách hàng với mức chi phí thấp nhất và ít tiêu tốn thời gian nhất. Các công ty logistics thuê ngoài đáp ứng được các dịch vụ logistics liên kết toàn cầu với chi phí thấp và hiệu quả. Các ngành công nghiệp tăng trưởng nhanh đang cố gắng đáp ứng những yêu cầu thuê ngoài bằng việc cung cấp các dịch vụ logistics bên 3 (3PL). Chính phủ Nhật Bản đề xuất chính sách ủng hộ ngành công nghiệp logistics thông qua việc cung cấp các dịch vụ logistics hiện đại và phù hợp nhằm đáp ứng được xu hướng logistics thuê ngoài - cuộc cách mạng trong kinh doanh hiện nay. Công nghiệp logistics Nhật Bản hiện đang phải đối diện với xu hướng cạnh tranh gay gắt của các đối thủ nước ngoài và sẽ gây cản trở tốc độ tăng trưởng 3PL của Nhật Bản. Tuy nhiên, thị trường logistics trong nước của Nhật Bản đã hoàn toàn được cách ly khỏi cuộc cạnh tranh bên ngoài. Xu hướng phát triển mới đang trỗi dậy trong ngành công nghiệp logistics Nhật Bản.

Nhật Bản là một trong những quốc gia đầu tiên đề xuất và phát triển khái niệm dịch vụ logistics và cũng là một trong những quốc gia có lĩnh vực logistics phát triển nhanh nhất thế giới. Nhật Bản xây dựng được những bãi kho vận từ rất sớm. Năm 1965, chính phủ Nhật Bản xây dựng 4 trung tâm kho vận Logistics ở Tokyo. Năm 2001, Bộ đất đai, cơ sở hạ tầng và giao thông vận tải Nhật Bản (MLIT - Ministry of Land, Infrastructure and Transportation) ban hành Kế hoạch Logistics mới (New Logistics Plan) nhằm đáp ứng được 3 xu hướng và mục tiêu cơ bản, bao gồm: (1) Xây dựng cơ chế logistics hiệu quả, tiên tiến; (2) Xây dựng cơ chế logistics phù hợp với nhu cầu của xã hội; (3) Xây dựng cơ chế logistics có thể đảm bảo duy trì được cuộc sống người dân.

Kinh nghiệm của Trung Quốc

Trong suốt quãng thời gian qua, nhờ chính sách cải cách kinh tế và mở cửa, nền kinh tế Trung Quốc đã nhanh chóng trỗi dậy trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Việc phát triển và khai thác cảng biển, đặc biệt là các thương cảng hỗ trợ cho phát triển ngoại thương, đã đạt được nhiều thành tích đáng ghi nhận. Trong quá trình phát triển các dịch vụ cảng biển của Trung Quốc, có thể thấy một số nét chính như sau:

Một là, Trung Quốc chuẩn bị tốt hệ thống pháp luật cho hội nhập kinh tế quốc tế. Khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Trung Quốc cam kết tự do hóa trong lĩnh vực dịch vụ cảng biển. Trung Quốc cho phép thành lập công ty để khai thác tàu biển treo cờ Trung Quốc theo các hình thức: Công ty hàng hải liên doanh với vốn góp bên ngoài không quá 49%, chủ tịch hội đồng quản trị và tổng giám đốc công ty liên doanh do phía Trung Quốc chỉ định.

Hai là, Trung Quốc có kinh nghiệm trong đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng cảng biển và thu hút các nhà đầu tư rất hiệu quả, thông qua việc thực hiện chính sách mở cửa trong đầu tư xây dựng phát triển cảng, khuyến khích và ưu đãi nước ngoài đầu tư, cho phép tư nhân xây dựng, kinh doanh khai thác cảng.

Ba là, mô hình quản lý và khai thác cảng được đa dạng hóa. Về quản lý nhà nước, tất cả các cảng biển của Trung Quốc do Chính phủ Trung ương sở hữu và quản lý. Bộ Giao thông vận tải quản lý tất cả các cảng biển trong nước. Ở cấp địa phương, các chính quyền cảng ở mỗi tỉnh thành liên quan chịu trách nhiệm về các chức năng hàng hải như cảng vụ, hoa tiêu, kiểm soát giao thông của tất cả các loại và kiểu tàu biển.

BÀI HỌC CHO VIỆT NAM TRONG PHÁT TRIỂN LOGISTICS BỀN VỮNG

Từ kinh nghiệm các nước trên thế giới, để phát triển logistics bền vững ở Việt Nam trong thời gian tới cần thực hiện một số giải pháp sau:

Thứ nhất, sự hợp tác và liên kết giữa các doanh nghiệp logistic

Đây là bài học rất quan trọng đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong tình hình hiện nay. Vì thực tế các doanh nghiệp logistics của Việt Nam hoạt động còn manh mún, thiếu hẳn sự liên kết, hợp tác cần thiết. Trong xu hướng phát triển dịch vụ thuê ngoài, mỗi doanh nghiệp cần tập trung vào thế mạnh của mình và sẽ thuê ngoài các dich vụ không phải là thế mạnh. Vì thế, tính liên kết và hợp tác trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Đã đến lúc các doanh nghiệp logistics Việt Nam cần liên kết phối hợp để có thể cung ứng ra thị trường một chuỗi các dịch vụ logistics cho khách hàng.

Thứ hai, xây dựng chiến lược phát triển dịch vụ logistics và ban hành các chính sách khuyến khích đầu tư phát triển hoạt động logistics

Logistics là một lĩnh vực mang lại hiệu quả rất lớn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như toàn xã hội. Vì vậy, các quốc gia trên thế giới có điều kiện thuận lợi đều chú trọng phát triển, chiến lược phát triển dịch vụ logistics được nằm trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội và thực tế các quốc gia này đã thu được hiệu quả rất lớn, ví dụ như Singapore, Trung Quốc hay các nước thuộc EU. Từ những bài học kinh nghiệm của các nước cho thấy, muốn phát triển dịch vụ logistics thì Nhà nước phải xây dựng chiến lược phát triển cho ngành kinh doanh dịch vụ này. Nếu không có một chiến lược phát triển đúng đắn sẽ dẫn đến sự tự phát, manh mún, gây lãng phí các nguồn lực, đầu tư không mang lại hiệu quả cao.

Thứ ba, phát triển cơ sở hạ tầng logistics

Theo các chuyên gia về kinh doanh dịch vụ logistics, thành công của ngành dịch vụ logistics dựa trên nền tảng của việc phát triển đồng bộ mạng lưới giao thông đường sắt, đường bộ, xây dựng và hiện đại hoá hệ thống sân bay. Ngoài ra, đầu tư và nâng cao chất lượng các công trình giao thông vận tải từ sân bay, bến cảng, hệ thống đường bộ đến các trung tâm logistics. Ở nước ta cần được đặc biệt quan tâm, sự bứt phá nhanh ngành logistics của các nước chính là chất lượng, hiệu quả đầu tư và khai thác các công trình cơ sở hạ tầng logistics, làm giảm chi phí logistics nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Về điều này, Việt Nam còn thấp, thua xa so với các nước. Vấn đề là ở chỗ, từ bài học các nước, chính sách Nhà nước ta phải tạo điều kiện cụ thể và hấp dẫn các nhà đầu tư. Những doanh nghiệp này không chỉ bù đắp nguồn vốn còn thiếu hụt, mà còn có thể đóng góp quan trọng những kỹ năng quản lý, công nghệ và kinh nghiệm nhằm xây dựng vận hành hệ thống cơ sở hạ tầng một cách hiệu quả.

Thứ tư, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước

Nhà nước cần sớm xây dựng một khung pháp lý cho hoạt động logistics, ban hành các quy định pháp luật tạo điều kiện cho sự phát triển ngành dịch vụ logistics, tăng cường thể chế quản lý dịch vụ logistics. Kinh nghiệm của các nước trong khu vực và trên thế giới cho thấy việc tăng cường quản lý dịch vụ logistics của nhà nước là hết sức cần thiết, góp phần tích cực cho dịch vụ logistics phát triển. Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công thương… phối hợp thành lập uỷ ban quốc gia về dịch vụ logistics hoặc giao nhiệm vụ cho một vụ hay cục quản lý về dịch vụ logistics, nói khác đi là phải có một cơ quan quản lý dịch vụ logistics.

Thứ năm, phát triển nguồn nhân lực logistics

Ngành logistics là một ngành kinh tế - kĩ thuật mang tính liên ngành và có tính chuyên nghiệp cao nên nhân lực hoạt động trong lĩnh vực này cần được đào tạo một cách hệ thống, bài bản và được trang bị đầy đủ kiến thức về kinh tế và quản trị logistics. Song trên thực tế, các cán bộ, nhân viên hoạt động trong lĩnh vực logistics hiện tại chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra.

Với một nguồn nhân lực vừa thiếu lại vừa yếu, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ thiếu tính cạnh tranh so với các đối thủ là các nhà cung ứng dịch vụ logistics lớn và danh tiếng của nước ngoài đang xuất hiện ngày càng nhiều ở nước ta. Từ đó cho thấy tính cấp thiết của việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực logistics ở nước ta. Bài học của Nhật Bản cho thấy, một nguồn nhân lực được đào tạo bài bản, chuyên ngiệp sẽ là chìa khoá thành công cho các doanh nghiệp logistics, nhất là đối với các doanh nghiệp của Việt Nam vốn còn đang rất nhỏ lẻ và thiếu kinh nghiệm.

KẾT LUẬN

Logistics là một ngành kinh tế - kỹ thuật non trẻ mang tính tổng hợp cao được du nhập vào Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, mở cửa hội nhập quốc tế. Đương nhiên, không thể tránh khỏi những tồn tại, bất cập được nêu ở phần trên. Đây là những trở ngại lớn ảnh hưởng đến tiến trình phát triển chung của ngành này. Nhưng yếu tố quan trọng hơn có tính chi phối đó là tầm nhìn hạn hẹp của một số cơ quan tầm vĩ mô, người thực hiện và một bộ phận không nhỏ xã hội đương thời, dẫn đến sự chậm trễ, thiếu đồng bộ trong quyết sách chiến lược đối với sự nghiệp phát triển logistics Việt Nam. Nếu những vấn đề nêu trên sớm được khắc phục và tồn tại chủ quan dần được hóa giải trong quá trình toàn cầu hóa logistics. Chúng ta hy vọng logistics Việt Nam sẽ phát triển bền vững tương xứng với nền kinh tế quốc dân trên đà tăng trưởng sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu./.

Tài liệu tham khảo

  1. An Thị Thanh Nhàn, Nguyễn Văn Minh, Nguyễn Thông Thái (2018), Giáo trình Quản trị logistics, Nxb Thống kê.

  2. BBT (2024), Xu hướng hoạt động Logistics tại Việt Nam và thế giới trong năm 2024.

  3. Bộ Công thương (2024), Báo cáo Logistics Việt Nam 2024: Khu thương mại tự do, Nxb Công Thương, Hà Nội.

  4. Đoàn Ngọc Ninh (2019), Nghiên cứu sự phát triển hệ thống logistics Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, truy cập tại https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/nghien-cuu-su-phat trien-he-thong-logistics-trung-quoc-va-bai-hoc-kinh-nghiem cho-viet-nam-69702.htm

  5. OECD (2024), The Ocean Economy in 2030, OECD Publishing, Paris.

Ngày nhận bài: 31/01/2025; Ngày phản biện: 07/02/2025; Ngày duyệt đăng: 12/02/2025