Tác động của chuyển đổi số đến ý định khởi nghiệp của nữ giới khu vực nông thôn Việt Nam
PGS, TS. Hoàng Thị Thu Hà
Đại học Kinh tế Quốc dân
Email: hoangthuha@neu.edu.vn
Bùi Anh Chi, Đặng Ngọc Tú, Trần Phương Thùy, Nguyễn Thị Diệu Trang
Đại học Kinh tế Quốc dân
Email: 11220939@st.neu.edu.vn
Đại học Kinh tế Quốc dân
Tóm tắt
Chuyển đổi số trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 mở ra nhiều cơ hội khởi nghiệp, song phụ nữ nông thôn - nhóm người có tiềm năng tận dụng công nghệ số, lại bị hạn chế về điều kiện tiếp cận. Thông qua kết quả khảo sát 221 phụ nữ đến từ các vùng nông thôn khác nhau, nghiên cứu nhằm đánh giá tác động của chuyển đổi số đến ý định khởi nghiệp của nữ giới khu vực nông thôn Việt Nam thông qua 4 yếu tố: Hỗ trợ từ giáo dục, Hỗ trợ môi trường kinh doanh, Hỗ trợ từ mối quan hệ và Năng lực cá nhân đối với khởi nghiệp. Kết quả cho thấy, cả 4 yếu tố đều có tác động tích cực đến ý định khởi nghiệp, trong đó yếu tố Giáo dục có mối tương quan mạnh mẽ nhất. Từ đó, nghiên cứu đề xuất các chính sách nhằm nâng cao tác động của chuyển đổi số thông qua, tạo điều kiện thuận lợi để phụ nữ nông thôn tiếp cận công nghệ và tăng cường cơ hội khởi nghiệp trong bối cảnh nền kinh tế số.
Từ khóa: chuyển đổi số, công nghệ số, khởi nghiệp, phụ nữ nông thôn, ý định khởi nghiệp
Summary
Digital transformation in the context of the Fourth Industrial Revolution opens up many opportunities for entrepreneurship, but rural women - a group with the potential to take advantage of digital technology, are limited in access. Through the results of a survey of 221 women from different rural areas, the study aims to assess the impact of digital transformation on the entrepreneurial intention of women in rural areas of Vietnam through 4 factors: Support from education, Support from business environment, Support from relationships and Personal capacity for entrepreneurship. The results show that all 4 factors positively impact entrepreneurial intention; the Education factor has the strongest correlation. From there, the study proposes policies to enhance the impact of digital transformation by creating favorable conditions for rural women to access technology and increase entrepreneurial opportunities in the context of the digital economy.
Keywords: digital transformation, digital technology, startups, rural women, startup intentions
GIỚI THIỆU
Phụ nữ Việt Nam luôn giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Trong kháng chiến, họ là hậu phương vững chắc, tham gia sản xuất. Trong nông nghiệp, họ đảm nhiệm đồng áng, sản xuất thủ công và chăm lo gia đình. Năm 2023, tỷ lệ nữ tham gia lao động đạt 62,9%, thuộc nhóm cao nhất thế giới. Khoảng 20% doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ, lao động nữ chiếm gần 50% trong nông nghiệp, đóng góp lớn vào kinh tế. Tuy nhiên, họ vẫn gặp rào cản trong tiếp cận nguồn lực, thu nhập thấp và ít cơ hội nghề nghiệp. Phụ nữ nông thôn khó tiếp cận tín dụng, hạn chế khởi nghiệp và phải gánh vác trách nhiệm gia đình. Theo ILO (2021), họ ít giữ vị trí ra quyết định, ảnh hưởng đến năng suất và thu nhập. Chuyển đổi số trong Cách mạng Công nghiệp 4.0 tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực. Việc áp dụng công nghệ số giúp tối ưu hóa sản xuất, nâng cao hiệu suất. Phụ nữ nông thôn thích ứng nhanh, học hỏi và ứng dụng công nghệ vào canh tác, kinh doanh. Khả năng tiếp cận công nghệ số giúp họ đóng góp nhiều hơn vào nền kinh tế. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu cụ thể về tác động của chuyển đổi số đến ý định khởi nghiệp của phụ nữ nông thôn. Vì vậy, việc đánh giá tác động của chuyển đổi số đến ý định khởi nghiệp của nữ giới khu vực nông thôn Việt Nam sẽ làm rõ mối tương quan giữa hỗ trợ giáo dục, môi trường, quan hệ và năng lực với ý định khởi nghiệp.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Cơ sở lý thuyết và giả thuyết nghiên cứu
Nghiên cứu của Hoàng Hà (2020) nhấn mạnh vai trò quan trọng của giáo dục trong việc thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp. Các trường đại học không chỉ trang bị kiến thức kinh doanh, mà còn tạo dựng môi trường thực tiễn để nuôi dưỡng ý tưởng khởi nghiệp. Vì vậy, nhóm tác giả đề xuất giả thuyết nghiên cứu sau:
H1: Hỗ trợ từ giáo dục có ảnh hưởng tích cực đến Ý định khởi nghiệp của nữ giới khu vực nông thôn.
Môi trường kinh doanh đóng vai trò quan trọng trong việc khuyến khích hay cản trở tinh thần khởi nghiệp. Những yếu tố như chính sách, văn hóa kinh doanh và công nghệ số có thể tạo ra cơ hội hoặc thách thức đối với người khởi nghiệp (Hoàng Hà, 2020). Do đó, nhóm tác giả đề xuất giả thuyết nghiên cứu sau:
H2: Hỗ trợ từ môi trường kinh doanh có ảnh hưởng tích cực đến Ý định khởi nghiệp của nữ giới khu vực nông thôn.
Các mối quan hệ cá nhân, đặc biệt là gia đình và bạn bè, có tác động lớn đến quyết định khởi nghiệp. Nhiều nghiên cứu cho thấy những người có người thân làm kinh doanh thường có xu hướng khởi nghiệp cao hơn (Hoàng Hà, 2020). Từ đó, nhóm tác giả đề xuất giả thuyết nghiên cứu sau:
H3: Hỗ trợ từ mối quan hệ có ảnh hưởng tích cực đến Ý định khởi nghiệp của nữ giới khu vực nông thôn.
Theo Nguyễn Thị Phương Lan, Trần Thị Kim Nhung (2023), hạ tầng công nghệ tại Việt Nam đang tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển đổi số trong khởi nghiệp. Bên cạnh đó, mong muốn phát triển bản thân và khẳng định vị thế trong xã hội là động lực mạnh mẽ thúc đẩy phụ nữ khởi nghiệp. Vì vậy, nhóm tác giả đưa ra giả thuyết nghiên cứu sau:
H4: Năng lực cá nhân đối với khởi nghiệp có ảnh hưởng tích cực đến Ý định khởi nghiệp của nữ giới khu vực nông thôn.
Mô hình nghiên cứu đề xuất
Từ 4 giả thuyết nghiên cứu nói trên, nhóm tác giả đề xuất giả thuyết nghiên cứu như Hình.
Hình 1: Mô hình nghiên cứu
![]() |
Nguồn: Nhóm tác giả phát triển |
Phương pháp nghiên cứu
Nhóm nghiên cứu phát hành bảng hỏi gồm các câu hỏi dạng trắc nghiệm với 5 mức từ 1 đến 5 dựa trên thang đo Likert 5, từ đó phát triển phiếu điều tra sơ bộ và phiếu điều tra chính thức và tiến hành điều tra trong thời gian tháng 01-3/2025. Kết quả thu về 200 phiếu trả lời, trong đó 180 phiếu đạt yêu cầu.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Kết quả mô hình
Bảng 1 cho thấy, hệ số Cronbach’s Alpha của cả 5 thành phần: Hỗ trợ từ giáo dục (GD), Hỗ trợ môi trường kinh doanh (MT), Hỗ trợ từ mối quan hệ (QH), Năng lực cá nhân đối với khởi nghiệp (NL) và Ý định khởi nghiệp (KN) đều > 0,6 đảm bảo thang đo đáp ứng yêu cầu về độ tin cậy.
Trong đó, cả 5 thành phần đều có hệ số Cronbach’s Alpha > 0,8. Điều này thể hiện sự phù hợp và độ tin cậy rất cao của thang đo. Bên cạnh đó, tất cả các chỉ báo đều có hệ số tương quan biến tổng > 0,3. Như vậy, có thể đánh giá trên đây là những thang đo lường tốt, phù hợp để tiến hành phân tích nhân tố khám phá (EFA) và phân tích EFA sẽ được thực hiện cho 24 chỉ báo.
Bảng 1: Bảng ma trận xoay kết hợp thống kê mô tả các biến
|
| Hệ số tải |
|
|
| |||
|
| 1 | 2 | 3 | 4 | Giá trị trung bình | Độ lệch chuẩn | Cronbach’s Alpha |
MT | Hỗ trợ từ môi trường kinh doanh |
|
|
|
| 3.5000 | 0.79663 | 0,863 |
MT2 |
| 0,814 |
|
|
|
|
| 0,834 |
MT3 |
| 0,711 |
|
|
|
|
| 0,831 |
MT4 |
| 0,652 |
|
|
|
|
| 0,843 |
MT5 |
| 0,645 |
|
|
|
|
| 0,837 |
MT6 |
| 0,568 |
|
|
|
|
| 0,842 |
MT1 |
| 0,536 |
|
|
|
|
| 0,852 |
QH | Hỗ trợ từ mối quan hệ |
|
|
|
| 3.8958 | 0.69304 | 0,799 |
QH5 |
|
| 0,764 |
|
|
|
| 0,758 |
QH2 |
|
| 0,745 |
|
|
|
| 0,741 |
QH4 |
|
| 0,742 |
|
|
|
| 0,736 |
QH1 |
|
| 0,628 |
|
|
|
| 0,796 |
QH3 |
|
| 0,564 |
|
|
|
| 0,767 |
NL | Năng lực cá nhân đối với khởi nghiệp |
|
|
|
| 3.3987 | 0.76329 | 0,853 |
NL4 |
|
|
| 0,831 |
|
|
| 0,795 |
NL3 |
|
|
| 0,768 |
|
|
| 0,808 |
NL2 |
|
|
| 0,685 |
|
|
| 0,814 |
NL1 |
|
|
| 0,682 |
|
|
| 0,835 |
GD | Hỗ trợ từ giáo dục |
|
|
|
| 3.2158 | 0.88499 | 0.833 |
GD1 |
|
|
|
| 0,803 |
|
| 0.746 |
GD3 |
|
|
|
| 0,779 |
|
| 0.755 |
GD4 |
|
|
|
| 0,747 |
|
| 0.774 |
GD2 |
|
|
|
| 0,517 |
|
| 0.864 |
KN |
|
|
|
|
|
|
| 0.852 |
KN2 |
| 0,883 |
|
|
|
|
|
|
KN3 |
| 0,847 |
|
|
|
|
|
|
KN1 |
| 0,785 |
|
|
|
|
|
|
KN5 |
| 0,751 |
|
|
|
|
|
|
KN4 |
| 0,690 |
|
|
|
|
|
|
Nguồn: Kết quả tính toán bằng phần mềm SPSS
Phân tích EFA
Đối với các biến độc lập
Sau khi loại bỏ biến không cần thiết và chạy lại EFA lần 2, hệ số KMO = 0,903 (>0,5), kiểm định Bartlett có Sig = 0,000 (<0,05), cho thấy các biến có tương quan và phù hợp để phân tích EFA.
Kết quả rút trích được 4 nhóm nhân tố với 24 biến quan sát, tổng phương sai tích lũy đạt 64,893%, nghĩa là các nhân tố giải thích được 64,893% sự biến thiên của dữ liệu. Tất cả các biến đều có Factor Loading > 0,5, đảm bảo ý nghĩa thực tiễn. Do đó, các nhân tố này đủ điều kiện để phân tích tương quan, hồi quy tuyến tính và kiểm định One-way ANOVA.
Đối với biến phụ thuộc
Phân tích EFA cho biến phụ thuộc thu được hệ số KMO = 0,828 (>0,5), kiểm định Bartlett có Sig. = 0,000 (<0,05), xác nhận dữ liệu phù hợp để phân tích. Kết quả EFA rút trích 1 nhóm nhân tố với 5 biến quan sát (KN1, KN2, KN3, KN4, KN5), phản ánh ý định khởi nghiệp. Tất cả biến đều có Factor Loading > 0,5, đảm bảo ý nghĩa thực tiễn và phù hợp với thang đo.
Phân tích hồi quy tương quan
Sau khi tiến hành đánh giá độ tin cậy Cronbach's Alpha, phân tích EFA, các chỉ số cho thấy, mô hình đạt mức đánh giá tốt và có ý nghĩa thống kê. Nhóm nghiên cứu tiếp tục thực hiện phân tích tương quan Pearson để lượng hoá mức độ chặt chẽ của mối liên hệ tuyến tính giữa biến độc lập và biến phụ thuộc.
Bảng 2: Kết quả phân tích tương quan
![]() |
Nguồn: Kết quả tính toán bằng phần mềm SPSS |
Kiểm định tương quan Pearson ở Bảng 2 cho thấy, Sig. = 0,000 < 0,05, khẳng định mối liên hệ tuyến tính giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc. Hệ số tương quan tuyệt đối < 0,7, nên khả năng đa cộng tuyến thấp.
Như vậy, cả 4 biến độc lập MT, QH, NL, GD đều có tương quan thuận với biến phụ thuộc KN. Trong đó, GD có mức độ tương quan mạnh nhất với hệ số 0,620, đạt mức tin cậy 99% (Andy Field, 2009). Kết quả này cho thấy, mô hình phù hợp, đủ điều kiện để phân tích hồi quy tuyến tính.
Phân tích hồi quy tuyến tính
Bảng 3 cho thấy, hệ số xác định R² và Adjusted R² nằm trong khoảng 0,5-1, cho thấy mô hình phù hợp. Giá trị Adjusted R² = 0,639 nghĩa là các biến độc lập giải thích 63,9% sự biến thiên của biến phụ thuộc, còn 36,1% do yếu tố ngoài mô hình và sai số ngẫu nhiên.
Kiểm định F từ bảng ANOVA có Sig. = 0,000 < 0,05, khẳng định mô hình hồi quy phù hợp với tổng thể. Phân tích các hệ số hồi quy và chỉ số VIF tiếp tục đánh giá ý nghĩa hệ số hồi quy và kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến.
Bảng 3: Kết quả tóm tắt mô hình kết hợp kết quả kiểm định ANOVA
![]() |
Nguồn: Kết quả tính toán bằng phần mềm SPSS |
Bảng 4: Thống kê phân tích các hệ số hồi quy
![]() |
Nguồn: Kết quả tính toán bằng phần mềm SPSS |
Phân tích hồi quy ở Bảng 4 cho thấy, cả 4 biến độc lập MT, QH, NL, GD đều có Sig. < 0,05, nghĩa là có ý nghĩa thống kê và tác động đến biến phụ thuộc KN. Chỉ số VIF < 2, khẳng định không có hiện tượng đa cộng tuyến (Hair và cộng sự, 2009). Hệ số hồi quy chuẩn hóa Beta dương cho thấy, các biến độc lập tác động thuận chiều lên biến phụ thuộc. Mức độ ảnh hưởng theo thứ tự giảm dần: GD (0,620) – tác động mạnh nhất; NL (0,452); MT (0,209); QH (0,121). Như vậy, cả 4 giả thuyết H1 – H4 đều được chấp nhận.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận
Kết quả nghiên cứu cho thấy, có 4 yếu tố tác động tích cực đến Ý định khởi nghiệp của nữ giới nông thôn Việt Nam, đó là: Hỗ trợ từ giáo dục, Hỗ trợ từ môi trường kinh doanh, Hỗ trợ từ mối quan hệ và Năng lực cá nhân đối với khởi nghiệp. Trong đó, Hỗ trợ từ giáo dục có tác động mạnh nhất, còn Hỗ trợ từ mối quan hệ có tác động yếu nhất.
Khuyến nghị
Thứ nhất, phát triển nền tảng giáo dục số với mô hình đào tạo kép, mentor trực tuyến, tập trung vào quản trị điện tử, tiếp thị số, phân tích dữ liệu. Cần chính sách hỗ trợ phụ nữ tiếp cận STEM, xóa bỏ định kiến giới trong giáo dục và cung cấp học bổng, hỗ trợ tài chính.
Thứ hai, hoàn thiện môi trường khởi nghiệp số với cổng thông tin "Khởi nghiệp 4.0", hệ thống đăng ký kinh doanh trực tuyến và ưu đãi thuế cho doanh nghiệp số do phụ nữ lãnh đạo.
Thứ ba, tăng cường mạng lưới hỗ trợ bằng diễn đàn khởi nghiệp trực tuyến, kết nối phụ nữ nông thôn với chuyên gia, nhà đầu tư, triển khai chương trình "Đối tác số" giữa doanh nghiệp công nghệ và hợp tác xã nữ. Đơn giản hóa thủ tục hành chính, tăng tiếp cận thông tin, tài chính.
Thứ tư, nâng cao năng lực cá nhân thông qua đào tạo kỹ năng số, xây dựng "Chỉ số sẵn sàng số", phát triển ứng dụng AI hỗ trợ khởi nghiệp.
Cuối cùng, hỗ trợ tài chính, bao gồm quỹ đầu tư, vay vốn ưu đãi, giúp phụ nữ nông thôn phát triển mô hình kinh doanh số./.
Tài liệu tham khảo
1. Ajzen, I. (1991), The theory of planned behavior, Organizational Behavior and Human Decision Processes, 50(2), 179-211.
2. Autio, Erkko N., Satish T., Llewellyn (2017), Digital Affordances, Spatial Affordances, and The Genesis of Entrepreneurial Ecosystems, Strategic Entrepreneurship Journal, 12.
3. Berman, S. J. (2012), Digital transformation: opportunities to create new business models, Strategy & Leadership, 40(2), 16–24.
4. David T. (2021), What is Digital Transformation?, EDPACS - The EDP Audit, Control and Security Newsletter, 64(1).
5. Field, A. (2009), Discovering Statistics Using SPSS. 3rd Edition, Sage Publications Ltd., London.
6. GEM (2015), Global Entrepreneurship Monitor 2015 to 2016: Special Report on Social Entrepreneurship, Global Entrepreneurship Monitor.
7. Gilster, P. (1997), Digital literacy, New York, NY: Wiley.
8. Hair, J. F., Black, W. C., Babin B. J., & Anderson R. E. (2009), Multivariate data analysis (7th ed.). Upper Saddle River, NJ: Pearson Prentice Hall.
9. Hoàng Hà (2020), Chuyển đổi số và những ảnh hưởng lên ý định khởi nghiệp.” Tạp chí Khoa học & Công nghệ, Đại học Đà Nẵng, 8(8), 56-62.
10. ILO (2021), Xu hướng Lao động và Xã hội Việt Nam 2021, Triển vọng 2030.
11. Kritchanchai, D., Shahab, Y., Abareshi A. (2021), The Impact of Digital Literacy on Entrepreneurial Intention: The Moderating Role of Social Media Usage, Journal of Open Innovation: Technology, Market, and Complexity, 7(2).
12. Nguyễn Phương Mai, Lưu Thị Minh Ngọc, Trần Hoàng Dũng (2018), Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của nữ sinh viên ngành quản trị kinh doanh trên địa bàn Hà Nội, Tạp chí Khoa học & Công nghệ, 49, 120-127.
13. Nguyễn Thị Phương Lan, Trần Thị Kim Nhung (2023), Chuyển đổi số trong các doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo ở Việt Nam: thuận lợi và khó khăn, Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương, số cuối tháng 3.
14. Phạm Huy Giao (2020), Chuyển đổi số: Bản chất, thực tiễn và ứng dụng, Tạp chí Dầu khí, 12.
15. Stam, Erik (2015), Entrepreneurial ecosystems and regional policy: a sympathetic critique, European Planning Studies, 23(9), 1759-1769.
16. Vũ Minh Khương (2019), Dự báo tác động của chuyển đổi số tới kết quả sản xuất - kinh doanh của 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam, Tạp chí Diễn đàn khoa học và công nghệ, 10.
Ngày nhận bài: 17/2/2025; Ngày phản biện: 25/2/2025; Ngày duyệt đăng: 13/3/2025 |
Bình luận