ThS. Phạm Hồng Nhung

Khoa Kinh doanh số, Trường Kinh tế, Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội

Email: phamhongnhung_qlkd@haui.edu.vn

Tóm tắt

Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng mạng xã hội để học tập của sinh viên Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội. Tác giả đã sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng thông qua khảo sát 278 sinh viên của trường để tìm hiểu sự tác động của các yếu tố: Quy chuẩn chủ quan, Sự hữu ích cảm nhận, Mục đích học tập, Hội chứng sợ bị bỏ lỡ ứng dụng, Sự phát triển của các nền tảng giáo dục tới hành vi sử dụng mạng xã hội để học tập của sinh viên. Kết quả cho thấy, hai yếu tố: quy chuẩn chủ quan và mục đích học tập không có tác động đến ý định sử dụng mạng xã hội để học tập của sinh viên. Trong 3 yếu tố còn lại, thì nhân tố có tác động mạnh nhất là sự phát triển của nền tảng giáo dục, nhân tố tác động mạnh thứ hai là Hội chứng sợ bị bỏ lỡ ứng dụng, tiếp theo là sự hữu ích cảm nhận. Kết quả này là cơ sở để đề xuất những ý kiến và phương pháp nhằm cải thiện việc học tập của sinh viên.

Từ khóa: Hành vi sử dụng, mạng xã hội, học tập, sinh viên

Summary

This study aims to find out the factors affecting the behavior of using social networks for learning of students at Hanoi University of Industry. The author used quantitative research methods through a survey of 278 students of Hanoi University of Industry to study the impact of the following factors: Subjective norms, Perceived usefulness, Learning purpose, Fear of missing out on applications, Development of educational platforms on students' behavior of using social networks for learning. The results show that 2 factors: Subjective norms and Learning purpose have no impact on students' intention to use social networks for learning. Of the remaining 3 factors, the factor with the strongest impact is the development of educational platforms, the second strongest impact is Fear of missing out on applications, followed by Perceived usefulness. From there, it is the basis to propose ideas and methods to improve students' learning.

Keywords: Usage behavior, social network, learning, students

GIỚI THIỆU

Trong bối cảnh xã hội hiện nay, với sự phát triển không ngừng của công nghệ thông tin, Internet đang từng bước khẳng định tầm quan trọng, trong đó xuất hiện ngày một nhiều các trang mạng xã hội tạo điều kiện để cá nhân, tổ chức có nhiều cơ hội chia sẻ những thông tin của mình.

Mạng xã hội là một kho tàng kiến thức lớn và là nguồn tài liệu vô tận phục vụ cho việc học tập của sinh viên hiện nay, giúp họ có những hiểu biết sâu rộng trong mọi lĩnh vực, cập nhật và tìm kiếm mọi thông tin dễ dàng và tiện lợi chỉ với những cú click chuột. Tuy nhiên, mạng xã hội cũng giống như con dao hai lưỡi, nó không chỉ mang đến những tác động tích cực mà còn tạo ra hậu quả tiêu cực trong cuộc sống của người sử dụng nói chung và hoạt động học tập của sinh viên nói riêng vì có nhiều yếu tố tác động đến hành vi sử dụng mạng xã hội của người dùng.

Qua tìm hiểu các nghiên cứu, tác giả nhận thấy có nhiều yếu tố tác động khác nhau đến hành vi sử dụng mạng xã hội để học tập của sinh viên. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào nhắc đến ảnh hưởng của hội chứng sợ bị bỏ lỡ (FOMO) tới hành vi sử dụng mạng xã hội để học tập. Các trang mạng xã hội ngày càng phát triển đồng nghĩa với việc lượng thông tin truyền tải qua chúng cũng nhanh và nhiều hơn khiến cho người dùng không kịp tiêu thụ lượng thông tin lớn, từ đó họ cảm thấy lo lắng, tiếc nuối và mong muốn có thể bắt kịp mọi người.

Do vậy, tác giả thực hiện nghiên cứu này nhằm giúp nhà trường và sinh viên nhận thấy những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng mạng xã hội để học tập, từ đó có thể đưa ra những ý kiến và phương pháp nhằm cải thiện năng lực học tập của sinh viên.

TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU

Fishbein và Ajzen (1975) định nghĩa chuẩn chủ quan là sức ép xã hội về mặt nhận thức để tiến hành hoặc không tiến hành hành vi nào đó. Theo Taylor và Told (1995), sức ép này đến từ thái độ ủng hộ hay không ủng hộ việc thực hiện hành vi của gia đình, bạn bè và những người quan trọng khác. Ajzen (1991) phát triển thêm từ định nghĩa của mình về chuẩn chủ quan, chỉ ra rằng cá nhân có ý định thực hiện hành vi sau khi xem xét sự ủng hộ của những người ảnh hưởng đối với bản thân và cá nhân nhận thấy có nhiều người cũng thực hiện hành vi giống như mình dự định. Các công trình nghiên cứu kể trên đều cho thấy sự tương quan dương giữa chuẩn chủ quan và ý định hành vi, vì vậy giả thuyết sau được đề xuất:

H1: Chuẩn chủ quan có ảnh hưởng tích cực đến hành vi sử dụng mạng xã hội để học tập của sinh viên.

Theo Davis (1989), sự hữu ích cảm nhận được định nghĩa là mức độ mà một người sử dụng hệ thống cụ thể sẽ nâng cao hiệu quả công việc của mình. Tác giả này cho rằng, những sự hữu ích mà internet mang lại như: nâng cao hiệu suất, nâng cao hiệu quả, nâng cao năng suất, kiểm soát công việc... sẽ tác động đến hành vi sử dụng internet của mọi người.

Theo nghiên cứu của Moon và Kim (2001), cảm nhận sự thích thú thể hiện thông qua ba thành phần: sự tập trung, sự tò mò và sự thích thú. Sinh viên thấy rằng sử dụng mạng xã hội trong việc học tập giúp họ tiết kiệm chi phí, thời gian tìm kiếm tài liệu và có thể xem thông tin mình cần bất kỳ lúc nào và qua đó gia tăng sự chấp nhận, ý định sử dụng mạng xã hội. Từ những lập luận này, tác giả đưa ra giả thuyết:

H2: Sự hữu ích cảm nhận có tác động tích cực đến hành vi sử dụng mạng xã hội để học tập của sinh viên.

Nghiên cứu của Vũ Như Quỳnh (2019) cho thấy, mục đích học tập là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hành vi học tập của sinh viên. Mục đích học tập có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài như gia đình, nhà trường, xã hội. Tuy nhiên, sinh viên có mục đích học tập rõ ràng sẽ có khả năng tự định hướng hành vi học tập của mình một cách tích cực, ít bị ảnh hưởng bởi những yếu tố bên ngoài. Và cũng theo tác giả này, thì mục đích học tập là "cái đích", "hướng đi" mà mỗi sinh viên hướng đến trong quá trình học tập. Mục đích học tập rõ ràng sẽ thúc đẩy sinh viên học tập một cách chủ động, tích cực và hiệu quả hơn. Trên cơ sở đó, giả thuyết sau được đề xuất:

H3: Mục đích học tập có tác động tích cực đến hành vi sử dụng mạng xã hội để học tập của sinh viên.

FOMO được định nghĩa là “sự lo sợ lan tỏa khi những người khác có thể có được những trải nghiệm bổ ích mà họ vắng mặt. FOMO được đặc trưng bởi mong muốn luôn kết nối với những gì người khác đang làm” (Przybylski và cộng sự, 2013). FOMO bao gồm cảm giác cảm giác cáu kỉnh, lo lắng và kém cỏi của mỗi cá nhân tăng lên khi họ xem mạng xã hội (Wortham, 2011).

Kết quả phỏng vấn sâu của tác gỉa cho thấy, sinh viên có cảm giác nuối tiếc khi bỏ lỡ các thông tin cần thiết liên quan đến chuyên ngành học mà họ đang quan tâm trên mạng xã hội. Từ đó, FOMO thúc đẩy họ sử dụng mạng xã hội để tìm kiếm các thông tin đã bỏ lỡ và cập nhật chúng nhanh chóng. Mặt khác, FOMO còn thúc đẩy họ chia sẻ những kiến thức hữu ích mà họ tìm hiểu được lên các trang mạng xã hội khi mà họ thấy bạn bè xung quanh chia sẻ những thông tin khác lên mạng xã hội. Vì vậy, giả thuyết sau đây được đề xuất:

H4: Hội chứng sợ bị bỏ lỡ tác động tích cực đến hành vi sử dụng mạng xã hội để học tập của sinh viên.

Nguyễn Văn Thọ (2011) đề cập rằng, trong bối cảnh sự du nhập và sử dụng truyền thông đa phương tiện như hiện nay, các nhà tâm lý đang nhìn về khía cạnh cảm xúc và hành vi. Các phương tiện truyền thông đa phương tiện là biểu hiện của sự phát triển công nghệ của nên văn minh hiện đại. Với tác dụng vô cùng to lớn của nó, nhiều người, nhất là thanh niên được đã áp dụng mạng xã hội rất nhiều vào cuộc sống hàng ngày, trở thành công cụ đắc lực phục vụ công việc, cũng như việc học tập của họ.

H5: Sự phát triển của các nền tảng giáo dục có tác động tích cực đến hành vi sử dụng mạng xã hội để học tập của sinh viên.

MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU

Dựa trên giả thuyết nghiên cứu và các lý thuyết nền tảng như: Lý thuyết hành vi có chủ đích (Theory of Reasoned Action - TRA), Lý thuyết kiểm soát hành vi nhận thức (Theory of Perceived Behavioral Control - TPB), Lý thuyết sử dụng và chấp nhận công nghệ (Technology Acceptance Model - TAM), tác giả xây dựng mô hình nghiên cứu, được thể hiện tại Hình.

Hình: Mô hình nghiên cứu

Tác động của một số yếu tố đến hành vi sử dụng mạng xã hội để học tập của sinh viên Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội

Nguồn: Tác giả đề xuất

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Bài viết này sử dụng phương pháp nghiên cứu tại bàn và phương pháp nghiên cứu định lượng.

Phương pháp nghiên cứu tại bàn

Thông qua việc nghiên cứu tổng quan các tài liệu, công trình nghiên cứu, số liệu, tình huống nghiên cứu có liên quan, tác giả xác định khung lý thuyết và xây dựng mô hình nghiên cứu, xác định thang đo các biến trong mô hình.

Phương pháp nghiên cứu định lượng

Tác giả tiến hành khảo sát 278 sinh viên Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội nhằm đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng mạng xã hội để học tập. Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 1/2024 đến tháng 4/2024. Tác giả sử dụng phương pháp chọn mẫu phi ngẫu nhiên, chọn mẫu thuận tiện vì phương pháp này thuận lợi và phù hợp với thời gian nghiên cứu ngắn mà vẫn đảm bảo độ tin cậy.

Bài viết sử dụng phần mềm SPSS phiên bản 20 để đánh giá độ tin cậy của thang đo bằng Cronbach’s Alpha, phân tích nhân tố khám phá (EFA), phân tích hồi quy.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Kết quả kiểm định cho thấy, hệ số Cronbach’s Alpha của các biến trong mô hình nằm trong khoảng từ 0,775-0,810, chứng tỏ thang đo các biến trong mô hình đảm bảo sự độ cậy và dữ liệu hoàn toàn phù hợp.

Điều kiện để phân tích EFA là 0,5 ≤ KMO ≤ 1, đồng thời hệ số Sig. < 0,05. Bảng 1 cho thấy, hệ số KMO đạt 0,797 > 0,5 chứng tỏ dữ liệu phù hợp với phân tích EFA. Hệ số Sig. của kiểm định Bartlett là 0,000 < 0,05, như vậy các biến quan sát của các nhân tố trong mô hình có tương quan với nhau.

Bảng 1: Kiểm định KMO

Hệ số KMO

,797

Đại lượng thống kê Bartlett

Chi-square

3284,156

df

668

Sig.

0,000

Nguồn: Tính toán từ dữ liệu khảo sát

Kết quả phân tích EFA cho thấy, 20 biến quan sát của 5 biến độc lập được tải lên 5 nhóm nhân tố, chứng tỏ các biến quan sát của mỗi biến độc lập có giá trị phân biệt. Bên cạnh đó, 5 nhóm nhân tố này được rút trích giải thích được 69,947% (> 50%) sự biến động của dữ liệu.

Bảng 2 cho thấy R2 hiệu chỉnh = 51,7%, điều này chứng tỏ các biến biến độc lập giải thích được 51,7% sự biến biên của biến phụ thuộc. Nói cách khác, mô hình nghiên cứu giải thích được 51,7% các lý do dẫn đến hành vi sử dụng mạng xã hội để học tập của sinh viên.

Bảng 2: Đánh giá sự phù hợp của mô hình

Tác động của một số yếu tố đến hành vi sử dụng mạng xã hội để học tập của sinh viên Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội

Nguồn: Tính toán từ dữ liệu khảo sát

Kết quả phân tích hồi quy chỉ ra rằng, các giả thuyết H2, H4, H5 được chấp nhận với mức ý nghĩa thống kê cao (p < 0,05). Trong khi đó, giả thuyết H1 và H3 bị bác bỏ do không tìm thấy tác động có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).

Bảng 3: Kết quả kiểm định giả thuyết

Kí hiệu

Nội dung

Kết quả

H1

Chuẩn chủ quan có tác động tích cực đến hành vi sử dụng mạng xã hội để học tập của sinh viên.

Bác bỏ

H2

Sự hữu ích cảm nhận có tác động tích cực đến hành vi sử dụng mạng xã hội để học tập của sinh viên.

Ủng hộ

H3

Mục đích học tập có tác động tích cực đến hành vi sử dụng mạng xã hội để học tập của sinh viên.

Bác bỏ

H4

Hội chứng sợ bị bỏ lỡ tác động tích cực đến hành vi sử dụng mạng xã hội để học tập của sinh viên.

Ủng hộ

H5

Sự phát triển của các nền tảng giáo dục có tác động tích cực đến hành vi sử dụng mạng xã hội để học tập của sinh viên.

Ủng hộ

Nguồn: Tính toán từ dữ liệu khảo sát

Kết quả điểm định giả thuyết (Bảng 3) cho thấy, nhân tố sự hữu ích cảm nhận có tác động tích cực đến hành vi sử dụng mạng xã hội để học tập của sinh viên. Các trang mạng xã hội càng có nhiều hữu ích thì càng có nhiều sinh viên tiếp cận và sử dụng để học tập.

Bên cạnh đó, hội chứng sợ bị bỏ lỡ có tác động tích cực đến hành vi sử dụng mạng xã hội để học tập. Sinh viên càng cảm thấy lo lắng, thiếu hụt khi không bắt kịp thông tin thì càng mong muốn truy cập vào mạng xã hội để kịp thời theo đuổi lượng thông tin đang thiếu.

Ngoài ra, Sự phát triển của các nền tảng giáo dục có tác động tích cực đến hành vi sử dụng mạng xã hội để học tập. Khi các nền tảng giáo dục/truyền thông càng phát triển, giúp sinh viên dễ dàng, thuận tiện tìm kiếm và thu thập thông tin hữu ích về học tập, thì sinh viên càng sử dụng mạng xã hội nhiều hơn.

KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý

Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, hành vi sử dụng mạng xã hội để học tập của sinh viên Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội chịu ảnh hưởng tích cực bởi các yếu tố: sự hữu ích cảm nhận, hội chứng sợ bị bỏ lỡ và Sự phát triển của các nền tảng giáo dục.

Dựa trên kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số giải pháp thúc đẩy hành vi sử dụng mạng xã hội giúp sinh viên học tập hiệu quả:

Một là, tăng cường sự hữu ích cảm nhận. Nhà trường cần nghiên cứu thiết kế và tích hợp các nội dung học thuật, tài nguyên học tập, video giảng dạy, podcast và bài kiểm tra tương tác vào các nền tảng mạng xã hội phổ biến như Facebook, Instagram, TikTok, hoặc YouTube; khuyến khích giảng viên, chuyên gia và sinh viên giỏi chia sẻ kiến thức học thuật, kinh nghiệm học tập hoặc giải đáp câu hỏi trên các cộng đồng học tập trực tuyến.

Hai là, tận dụng hiệu ứng FOMO thông qua tổ chức các sự kiện học tập trực tuyến có thời gian giới hạn (ví dụ: livestream chuyên đề, mini-course chỉ phát trong 24h) nhằm khơi gợi sự tham gia nhanh chóng của sinh viên; sử dụng các chiến dịch “bạn bè cùng học” để tăng tính kết nối xã hội, từ đó tạo động lực cho sinh viên không muốn bị bỏ lại phía sau.

Ba là, phát triển và tích hợp các nền tảng giáo dục/truyền thông. Nhà trường cần kết nối mạng xã hội với các nền tảng quản lý học tập nhằm giúp sinh viên theo dõi tiến độ học tập và nhận thông báo ngay trên mạng xã hội; tạo kênh thông tin chính thống từ trường học hoặc khoa trên mạng xã hội để chia sẻ thông tin, kiến thức, tài liệu và các khóa học mở…/.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ajzen, I. (1991). The theory of planned behavior, Organizational Behavior and Human Decision Process, 50(2), 179-211.

2. Davis, F. (1989). Perceived Usefulness, Perceived Ease of Use, and User Acceptance of Information Technology, MIS Quarterly, 13, 319-340.

3. Fishbein, M., & Ajzen, I. (1975). Belief, Attitude, Intention and Behaviour: An Introduction to Theory and Research, Reading, MA: Addison-Wesley.

4. Moon J-W và Kim Y.G (2021). Extending the TAM for a WorldWide-Web context, Information and Management, 38, 217-230.

5. Nguyễn Văn Thọ (2011). Suy nghĩ về tính tự chủ của học sinh trong thời đại thông tin và truyền thông đa phương tiện, Tham luận tại Hội thảo “Tính tự chủ của học sinh trong thời đại đa truyền thông”, ngày 07/05/2011.

6. Taylor, S. and Todd, P.A. (1995). Understanding Information Technology Usage: A Test of Competing Models, Information Systems Research, 6, 144-176.

7. Przybylski, A. K., Murayama, K., DeHaan, C. R., Gladwell, V. (2013). Motivational, Emotional, and Behavioural Correlates of Fear of Missing Out, Computers in Human Behaviour, 29, 1841-1848.

8. Vũ Như Quỳnh (2019). Nhu cầu sử dụng mạng xã hội Facebook trong học tập của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Luận văn thạc sỹ, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.

9. Wortham, J. (2011). Feel like a wallflower? Maybe it's your facebook wall, retrieved from http://www.nytimes.com/2011/04/10/business/10ping.html.

Ngày nhận bài: 20/5/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 15/6/2025; Ngày duyệt đăng: 24/6/2025