Tăng cường liên kết vùng và cơ chế hợp tác giữa các địa phương khu vực Đồng bằng sông Cửu Long
Công trình nghiên cứu là kết quả thực hiện nhiệm vụ do Chính phủ giao tại Nghị quyết số 57/NQ-CP năm 2022 “chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan theo dõi, đánh giá độc lập và có báo cáo định kỳ về tính tổng thể trong phát triển kinh tế - xã hội các vùng, về hiệu quả hoạt động phối hợp, liên kết vùng của từng địa phương”. Báo cáo được thực hiện bởi VCCI và Trường Chính sách Công và Quản lý Fulbright (FSPPM). BambuUP là đối tác đồng hành với dự án báo cáo năm nay, tham gia đóng góp vào công cuộc phát triển bền vững tại ĐBSCL. Các dữ liệu kinh tế được thu thập, tổng hợp bởi VCCI chi nhánh ĐBSCL từ nhiều nguồn khác nhau và do các tác giả dày công biên soạn.
Tình hình kinh tế xã hội ĐBSCL
Trước ảnh hưởng tiêu cực của kinh tế thế giới, khi tăng trưởng kinh tế toàn cầu suy giảm, với mức tăng trưởng 8% trong năm qua, Việt Nam là một điểm sáng trong bức tranh kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, sự suy giảm sức cầu cả trong và ngoài nước khiến tăng trưởng của Việt Nam trong 9 tháng 2023 chỉ đạt 4,2% so với cùng kỳ. Hệ quả là dự báo mức tăng trưởng của Việt Nam trong năm 2023 chỉ trên dưới 5%, thấp hơn nhiều so với mục tiêu 6,5% do Quốc hội đề ra. Trong trung hạn, kinh tế Việt Nam được kỳ vọng duy trì mức tăng trưởng ổn định trong khoảng 6-7% trong giai đoạn 2024-2028 (IMF, 2023a).
Ông Phạm Tấn Công - Chủ tịch VCCI phát biểu tại Lễ Công bố Báo cáo |
Báo cáo cho thấy, tương tự như cả nước, kinh tế vùng ĐBSCL phục hồi mạnh mẽ trong năm 2022, nhưng chậm hẳn lại trong năm 2023. Đóng góp cho sự tăng trưởng ấn tượng trong năm 2022 là sự hồi phục mạnh mẽ của khu vực công nghiệp và dịch vụ, với mức tăng trưởng năm 2022 đạt 11%. Đồng thời, ngành nông nghiệp vẫn duy trì được mức tăng trường ổn định so với giai đoạn trước.
Trong những năm trở lại đây, cơ cấu GRDP của vùng ĐBSCL gần như không có sự thay đổi. Sự chuyển dịch từ khu vực I sang khu vực II và III chỉ dao động trong khoảng 1-2 điểm phần trăm. Một nguyên nhân quan trọng của tình trạng này là do ĐBSCL phải tiếp tục giữ trọng trách an ninh lương thực, nên việc tái phân bổ nguồn lực, đặc biệt là đất lúa, chịu nhiều ràng buộc trong quá trình chuyển đổi.
Vòng xoáy đi xuống về nguồn nhân lực vẫn tiếp diễn ở ĐBSCL. Sau hai năm đại dịch với dân số tăng mạnh do lao động hồi hương, đến năm 2022, tình hình dân số vùng ĐBSCL quay về xu hướng trước đó khi người lao động bắt đầu quay trở lại vùng Đông Nam Bộ. Theo Tổng cục Thống kê, trong năm 2022, dân số của ĐBSCL chỉ tăng khoảng 10.000 người. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của ĐBSCL (0,55%) thấp nhất trong số các vùng và thấp hơn hẳn so với mức trung bình của cả nước (9,7%). Kết hợp với mức độ già hóa dân số cao nhất nước, ĐBSCL sẽ nhanh chóng mất đi trạng thái dân số vàng chỉ trong vài năm tới.
Chất lượng lao động, thể hiện quả tỷ lệ lao động qua đào tạo của ĐBSCL tuy có cải thiện song vẫn luôn là một quan ngại lớn. Trong năm 2022, tỷ lệ này tại ĐBSCL chỉ đạt 15%, thấp hơn cả Tây Nguyên (17%) và thấp hơn nhiều so với cả nước (26%). Số lượng và chất lượng lao động thấp đã làm suy giảm đáng kể tính cạnh tranh của Vùng.
Sự phân hóa về tỷ lệ hộ nghèo giữa các tỉnh trong Vùng là rất lớn. Các tỉnh công nghiệp, dịch vụ phát triển như: Long An, Tiền Giang, Cần Thơ có tỷ lệ hộ nghèo thấp nhất, trong khi các tỉnh mạnh về nông nghiệp như: Trà Vinh, Bạc Liêu, Hậu Giang, Cà Mau và Sóc Trăng có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất.
ĐBSCL đang dần mất đi lợi thế về môi trường kinh doanh (PCI). Sau một thời gian khá dài có mức PCI cao hơn mặt bằng chung, thì đến năm 2021 PCI trung bình của ĐBSCL đã giảm xuống bằng mức trung bình cả nước. Đến năm 2022, PCI ở mức trung bình.
Nếu không có những nỗ lực cải thiện đúng mức, ĐBSCL vốn đã bất lợi sẽ càng trở nên thất thế trong nỗ lực thu hút đầu tư và phát triển doanh nghiệp. Tăng trưởng đầu tư của ĐBSCL tuy duy trì được sự ổn định, song vẫn thấp hơn so với cả nước, khiến tỷ trọng đầu tư của Vùng so với cả nước giảm từ 18,7% năm 2017 xuống còn 14,9% năm 2022. Trong giai đoạn 2017-2022, tốc độ tăng trưởng đầu tư thực trung bình của Vùng đạt 5,2%.
Tuy nông nghiệp giữ vai trò quan trọng nhất trong GRDP của Vùng, nhưng lại không phải là động lực chính thúc đẩy kinh tế Vùng. Ngành này hiện tạo ra 34% GRDP của Vùng, được đầu tư lớn thứ hai (khoảng 32 nghìn tỷ đồng mỗi năm) nhưng chỉ đạt tốc độ tăng trưởng dưới mức trung vị (3%). Điều này một lần nữa ngụ ý rằng, thể chế và mô hình nông nghiệp hiện tại không còn nhiều không gian tăng trưởng và cần phải được thay đổi một cách cơ bản.
Thách thức của ĐBSCL
ĐBSCL giàu tiềm năng nhưng lại đang tụt hậu so với đà tăng trưởng kinh tế của cả nước. Hai thập niên trước, ĐBSCL còn đóng góp khoảng 16% GDP của cả nước, thì đến nay tỷ trọng này chỉ còn 12%. Mức độ tụt hậu của ĐBSCL so với TP. Hồ Chí Minh còn nghiêm trọng hơn.
Sự tương phản giữa một quá khứ đầy triển vọng và hiện tại kém tươi sáng là ẩn ý đằng sau nhận xét “Đồng bằng đi trước về sau”. Quan trọng hơn, sự tương phản đó cho thấy ĐBSCL đang đứng trước nhiều thách thức nghiêm trọng mà nếu không được giải quyết thỏa đáng sẽ có nguy cơ đẩy vùng đất trù phú và giàu tiềm năng này ra bên lề trên hành trình phát triển của đất nước.
Báo cáo chỉ ra 3 vòng xoáy đi xuống về kinh tế - xã hội - môi trường, đồng thời tóm tắt các thách thức này trong các vòng xoáy đi xuống. Một thông điệp chủ chốt trong Báo cáo thường niên 2022 là chỉ bằng cách phá vỡ một số mắt xích của các vòng xoáy đi xuống này, sau đó đảo ngược thành các vòng xoáy đi lên, thì ĐBSCL mới có thể chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế và nâng cao thu nhập cho người dân một cách bền vững. Trong đó, nút thắt xuyên suốt, nằm đằng sau các nút thắt về kinh tế - xã hội - môi trường, được thảo luận trong cả Báo cáo thường niên 2020 và 2022 là cơ chế quản trị, điều phối và liên kết vùng thiếu hiệu lực và hiệu quả. Trong khi các lực “ly tâm” làm suy yếu liên kết vùng còn nhiều, thì các lực “hướng tâm” nhằm thắt chặt liên kết vùng lại rất yếu.
3 yếu tố then chốt ảnh hưởng sự phát triển của khu vực
Từ những nghiên cứu trước, Báo cáo năm 2023 xác định thể chế, quản trị và liên kết vùng là 3 yếu tố then chốt, có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của ĐBSCL trong hiện tại và dài hạn. Liên kết vùng không chỉ là sự hợp tác để tạo lợi thế, khai thác tối đa tiềm lực kinh tế giữa các địa phương trong vùng, giữa ĐBSCL với TP. Hồ Chí Minh, mà đó còn là cơ sở để tiến tới thực hiện nhất quán các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước. Bên cạnh đó, một thể chế tốt và cơ chế quản trị hiệu quả, sẽ tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi, giúp doanh nghiệp, nhà đầu tư nhận diện các cơ hội để phát triển kinh doanh, đầu tư.
Từ kết quả nghiên cứu của Báo cáo 2023 cho thấy, ĐBSCL đang đứng trước nhiều thách thức lớn, nếu không được sớm giải quyết, sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế vùng, kéo theo những hệ lụy tụt hậu mang tính nan giải về môi trường và xã hội. Ba vòng xoáy đi xuống của kinh tế, xã hội và môi trường mà Vùng đang gặp phải từ nghiên cứu trước chỉ ra, là những thách thức lớn cần được tháo gỡ.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, 6 nhóm nguyên nhân trực tiếp dẫn đến các thách thức hiện nay ở ĐBSCL, bao gồm: (i) Điều kiện tự nhiên; (ii) Công nghệ; (iii) Vốn nhân lực; (iv) Kết cấu hạ tầng; (v) Môi trường đầu tư - kinh doanh; và (vi) Cơ chế quản trị - hợp tác - liên kết vùng. Các nguyên nhân trực tiếp này lại là kết quả của nhiều thể chế, chính sách, và các quá trình kinh tế đan xen được tạo thành từ những nguyên nhân thể chế có tính nền tảng. Như vậy, các nút thắt thể chế đang làm cản trở phát triển kinh tế vùng trong hiện tại và nếu không được điều chỉnh, cả trong dài hạn thì Vùng sẽ khó phát triển nhanh và bền vững.
Bà Nguyễn Hương Quỳnh, CEO BambuUP chia sẻ với vai trò đối tác đồng hành của dự án, đóng góp vào công cuộc phát triển bền vững của ĐBSCL |
Báo cáo cũng chỉ rõ, trong những năm qua, ĐBSCL đang được quan tâm nhiều hơn, nhiều nghị quyết quan trọng đã được Trung ương Đảng, Quốc hội và Chính phủ ban hành để định hướng, quy hoạch và thiết lập cơ chế để Vùng phát triển. Song các chủ trương chỉ định hướng về không gian, còn nội dung mang tính tổng thể, một số ban hành ở nhiều cấp khác nhau, chưa có sự thống nhất cao hoặc thậm chí quy định và ràng buộc nhau, lại làm gia tăng lực cản. Việc chậm thể chế hóa chủ trương bằng các quy định, văn bản pháp luật dẫn đến các nghị quyết chưa được triển khai vào đời sống xã hội.
Cơ chế hợp tác chính thức giữa các địa phương trong Vùng đang rất cần được hình thành, để khai thác tối đa những lợi thế và nguồn lực vốn có. Trước đây, nhiều mô hình quản trị và liên kết vùng được thiết lập nhưng hầu như chưa đạt được kết quả như mong đợi. Điều này dẫn đến sự phân tách hay trùng lắp, cạnh tranh lẫn nhau giữa các địa phương để giành lấy lợi ích và thành tích phát triển, đang làm cho ĐBSCL trở nên khó khăn hơn.
Cùng với cơ chế quản trị vùng chính thức, cơ chế phi chính thức được thiết lập từ cộng đồng, các tổ chức xã hội lập, nên để kết nối, hợp tác giữa các doanh nghiệp, chính quyền, thị trường chưa phát huy hiệu quả, bởi thiếu sự quan tâm và nguồn lực còn hạn chế. Các mô hình hợp tác đã vận hành như: cánh đồng mẫu lớn, liên kết 4 nhà, hợp tác theo chuỗi giá trị... chỉ đạt được kết quả nhất định, không theo kịp phát triển của kinh tế, xã hội.
Những cơ chế quản trị mang tính nền tảng khác như: đất đai, nguồn nước, năng lượng, môi trường thích ứng biến đổi khí hậu đang thiếu một cơ chế quản lý cấp vùng để khai thác, điều tiết sử dụng một cách hiệu quả. Phân bổ sử dụng đất còn bị ràng buộc đã làm chậm quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng, sự chồng chéo trong quản trị nguồn tài nguyên nước đang làm cho thách thức càng trở nên nghiêm trọng hơn. Năng lượng là một ngành tiềm năng lớn, nhưng chưa có tuyên bố chính thức nào về mục tiêu phát triển, dẫn đến các địa phương đều mở rộng quy hoạch và kêu gọi đầu tư phát triển trùng lắp nhau. Hệ thống thể chế quản lý vùng về môi trường thích ứng biến đổi khí hậu chưa thống nhất cao, các mục tiêu chính sách đang bị chồng chéo và mâu thuẩn, phân bổ ngân sách cho các dự án biến đổi khí hậu không đồng bộ, chia cắt giữa cắt địa phương.
Bên cạnh đó, các thể chế vi mô, kết nối các thành tố trong chuỗi, hợp tác sản xuất thiếu bền vững. Các chuỗi nông sản chủ lực ở ĐBSCL còn nhiều hạn chế, yếu kém ở một số khâu, liên kết hợp tác lõng lẽo, dẫn đến khai thác lợi thế, năng lực cạnh tranh còn hạn chế. Hợp tác giữa các hộ sản xuất nhỏ chưa tìm ra mô hình nào mới ngoài các hợp tác xã hiện hữu, dù đang tương đối hiệu quả nhưng cũng đối mặt với nhiều thách thức về tiếp cận vốn, đất đai, quản lý, khai thác.
Để giải quyết 6 nhóm nguyên nhân nói trên, Báo cáo khuyến nghị hướng đến tháo gỡ một trong những mắc xích của 3 vòng xoáy kinh tế - xã hội - môi trường để tạo vòng xoáy đi lên. ĐBSCL đang cần nhận diện các điểm nghẽn hay nút thắt của thể chế, quản trị và mối liên kết hợp tác vùng. Tiếp nối Báo cáo năm 2022, VCCI khu vực ĐBSCL cùng Trường Chính sách Công và Quản lý Fulbright đã tập hợp hơn 30 chuyên gia trong và ngoài nước tham gia biên soạn trong suốt một năm qua, nhằm cung cấp một kết quả nghiên cứu khách quan để tham mưu cho Chính phủ, các cơ quan Quốc hội, chính quyền các địa phương. Nội dung nghiên cứu này không chỉ phân tích những vấn đề của ĐBSCL đang gặp phải, mà đó cũng là những vấn đề chung trong cấu trúc thể chế cả nước.
Báo cáo năm nay ra mắt trong bối cảnh các tỉnh ĐBSCL vừa hoàn thành quy hoạch cấp tỉnh, cần một cơ chế thực thi, giải quyết các trở ngại trong quá trình triển khai quy hoạch của từng địa phương, đồng thời Vùng cần cơ chế hợp tác giữa các tỉnh để khai thác các nguồn lực một cách hiệu quả, phát triển kinh tế xã hội theo đúng hướng quy hoạch tích hợp đã được Thủ tướng phê duyệt. Có như thế, ĐBSCL mới có thể thành “điểm sáng” trong tăng trưởng và phát triển kinh tế, xã hội theo mục tiêu Nghị quyết Đại hội 13 của Đảng đề ra. Báo cáo kinh tế thường niên năm 2023 là tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà quản trị, xây dựng chính sách, giới nghiên cứu và những ai quan tâm khi tìm hiểu về kinh tế, xã hội Vùng ĐBSCL.
Để công bố kết quả nghiên cứu, VCCI tại Cần Thơ tổ chức Lễ công bố “Báo cáo kinh tế thường niên ĐBSCL năm 2023” vào ngày 12/12/2023 tại Cần Thơ. Cùng ngày, Diễn đàn Chính sách “Phát triển Kinh tế ĐBSCL nhìn từ liên kết vùng và hợp tác giữa các địa phương” cũng được tổ chức, nhằm đánh giá về cơ chế triển khai quy hoạch vùng ĐBSCL và quản trị tài nguyên trước biến đổi khí hậu, đồng thời đánh giá liên kết vùng và chuyển đổi cơ cấu kinh tế để các địa phương nhận diện chính sách phát triển. Doanh nghiệp cần có sự chuyển đổi mô hình kinh doanh mới cho phù hợp với bối cảnh thay đổi tại ĐBSCL./.
Bình luận